Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

7. Từ quyển: Cuộc sống trước mặt, Chương 4

01/07/201100:59(Xem: 3449)
7. Từ quyển: Cuộc sống trước mặt, Chương 4

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Từ quyển: Cuộc Sống Trước Mặt, Chương 4

Người hỏi: Thượng đế là gì?

Krishnamurti: Làm thế nào bạn sẽ tìm ra đây? Bạn sẽ chấp nhận thông tin của một người khác à? Hay bạn sẽ tự cố gắng khám phá cho mình Thượng đế là gì? Rất dễ dàng khi đặt những câu hỏi, nhưng trải nghiệm sự thật đòi hỏi nhiều thông minh, nhiều tìm hiểu và tìm kiếm.

Vì vậy câu hỏi đầu tiên là: bạn sẽ chấp nhận điều gì một người khác nói về Thượng đế phải không? Không đặt thành vấn đề người đó là ai, Krishna, Buddha, hay Christ, bởi vì tất cả họ đều có lẽ sai lầm – và vì vậy vị đạo sư đặc biệt riêng của bạn có lẽ cũng bị sai lầm. Chắc chắn, muốn tìm ra điều gì là sự thật, cái trí của bạn phải được tự do để tìm hiểu, mà có nghĩa rằng nó không thể chấp nhận hay tin tưởng. Tôi có thể cho bạn một diễn tả của sự thật, nhưng nó sẽ không giống như trải nghiệm sự thật của chính bạn. Tất cả những quyển sách thiêng liêng đều diễn tả Thượng đế là gì, nhưng những diễn tả kia không là Thượng đế. Từ ngữ Thượng đế không là Thượng đế, phải vậy không?

Muốn tìm ra điều gì là sự thật bạn phải không bao giờ chấp nhận, bạn phải không bao giờ bị ảnh hưởng bởi điều gì những quyển sách, những vị thầy, hay bất kỳ người nào có lẽ nói. Nếu bạn bị ảnh hưởng bởi họ, bạn sẽ chỉ tìm được điều gì họ muốn bạn tìm. Và bạn phải biết rằng cái trí riêng của bạn có thể sáng chế hình ảnh của điều gì nó muốn; nó có thể sáng chế ra Thượng đế với bộ râu quai nón, hay với một con mắt; nó có thể khiến Ngài thành màu xanh hay màu tím. Vì vậy bạn phải tỉnh thức được những ham muốn riêng của bạn và không bị lừa gạt bởi những chiếu rọi của những đòi hỏi và ao ước riêng của bạn. Nếu bạn ao ước gặp Thượng đế trong một hình thức nào đó, hình ảnh bạn thấy sẽ tùy thuộc vào những ao ước của bạn, và hình ảnh đó sẽ không là Thượng đế, phải vậy không? Nếu bạn đang đau khổ và muốn được an ủi, hay nếu bạn có cảm tính và lãng mạn trong cảm hứng tôn giáo của bạn, cuối cùng bạn sẽ tạo ra một vị Thượng đế mà sẽ cung cấp điều gì bạn muốn, nhưng vẫn vậy nó sẽ không là Thượng đế.

Vì vậy cái trí của bạn phải hoàn toàn được tự do, và chỉ đến lúc đó bạn mới có thể tìm ra điều gì là sự thật – không phải bằng cách chấp nhận điều mê tín nào đó, cũng không phải bằng cách đọc những quyển sách tạm gọi là thiêng liêng, cũng không phải bạn bằng cách tuân theo một vị đạo sư nào đó. Chỉ khi nào bạn có được tự do này, tự do thực sự này khỏi những ảnh hưởng bên ngoài cũng như khỏi những ham muốn và ao ước riêng của bạn để cho cái trí của bạn rất rõ ràng – vậy thì chỉ lúc đó mới có thể tìm được Thượng đế là gì. Nhưng nếu bạn chỉ ngồi xuống và suy đoán vậy thì suy đoán của bạn cũng giỏi bằng suy đoán của vị đạo sư của bạn, và ảo tưởng lại bằng nhau.

Người hỏi: Chúng ta có thể tỉnh thức được những ham muốn không ý thức được của chúng ta hay không?

Krishnamurti: Trước hết, bạn có tỉnh thức được những ham muốn có ý thức của bạn hay không? Bạn biết ham muốn là gì hay không? Bạn có biết rằng thường thường bạn không lắng nghe bất kỳ ai đang nói một điều gì đó đối nghịch với điều gì bạn tin tưởng hay không? Ham muốn của bạn ngăn cản bạn không lắng nghe. Nếu bạn ham muốn Thượng đế, và một ai đó chỉ rõ rằng vị Thượng đế mà bạn ham muốn là kết quả của những thất vọng và sợ hãi của bạn, liệu bạn có lắng nghe anh ấy hay không? Dĩ nhiên là không? Bạn muốn một việc, và sự thật là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn. Bạn tự giới hạn chính mình trong những ham muốn riêng của bạn. Bạn chỉ tỉnh thức nửa vời được những ham muốn có ý thức của bạn, phải vậy không? Và muốn tỉnh thức được những ham muốn được giấu giếm sâu thẳm còn khó khăn hơn nhiều. Muốn tìm ra điều gì được giấu giếm, muốn phát giác những động cơ riêng của nó là gì, cái trí mà đang tìm kiếm phải rất rõ ràng và tự do. Vì vậy trước hết phải hoàn toàn tỉnh thức được những ham muốn có ý thức của bạn; sau đó, bởi vì mỗi lúc bạn đang gia tăng sự tỉnh thức được cái gì là trên bề mặt, bạn có thể đi sâu thẳm hơn và sâu thẳm hơn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/03/2017(Xem: 7907)
Trong nghi thức Cầu Siêu của Phật Giáo Việt Nam, ở phần Quy Y Linh, có ba lời pháp ngữ: “Hương linh quy y PHẬT, đấng PHƯỚC TRÍ VẸN TOÀN – Hương linh quy y PHÁP, đạo THOÁT LY THAM DỤC – Hương linh quy y TĂNG, bậc TU HÀNH CAO TỘT” (chơn tâm – vô ngã). Ba lời pháp ngữ trên chính là ba điều kiện, ba phương tiện siêu xuất, có năng lực đưa hương linh (thân trung ấm) được siêu lên các cõi thiện tùy theo mức độ thiện nghiệp nhiều,
13/03/2017(Xem: 5150)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực.
11/03/2017(Xem: 8023)
Do vì đặc thù, cho nên bảy hạng đệ tử Phật (Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni, Sa di, Sa di ni, Thích xoa Ma na, Ưu Bà Tắt, Ưu Bà Di) từ trong thời Phật còn tại thế và hôm nay, ai cũng phải có tâm từ bi là một quy luật ắt phải có sau khi quay về Đạo Phật (Quy y tam bảo) trở thành Phật tử xuất gia. Được có tâm từ bi, là phải học và thực tập Phật Pháp. Dù là những oanh vũ nam, oanh vũ nữ trong tập thể GĐPT, đều phải học đạo lý từ bi và thực tập từ bi, được thấy ở những câu: em thương người và vật, em kính mến cha, mẹ và thuận thảo với anh chi, em.
01/02/2017(Xem: 4172)
Một số tư tưởng Phật học sau đây cùng nói lên nghĩa của Ý Giáo : Ý tưởng mong muốn đem giáo Pháp giải thoát của Phật ra, giảng dạy cho mọi người được biết mà tu tập. Tâm thông đạt mọi khế lý, giáo nghĩa Phật pháp. Tự mình làm thầy lấy mình để sửa tâm. Tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hành giả vào đạo Phật để tìm con đường giải thoát
29/01/2017(Xem: 9184)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 24517)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13360)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8640)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 6457)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 4667)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567