Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19. Từ quyển: Ghi Chép của Krishnamurti

01/07/201100:59(Xem: 3660)
19. Từ quyển: Ghi Chép của Krishnamurti

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Từ quyển: Ghi Chép Của Krishnamurti
Ngày 20 tháng 7 năm 1961

Tiến trình mãnh liệt một cách đặc biệt chiều hôm qua. Trong xe hơi, đang chờ đợi, người ta hầu như quên bẵng mọi chuyện đang xảy ra chung quanh người ta. Cường độ mãnh liệt đã gia tăng và nó hầu như không chịu nổi đến nỗi người ta bắt buộc phải nằm xuống. May mắn thay có một người nào đó trong phòng.

Căn phòng ngập tràn phước lành đó. Bây giờ cái gì tiếp theo hầu như không thể diễn đạt bằng từ ngữ; từ ngữ là những vật chết, với nghĩa lý được sắp đặt chính xác và cái gì đã xảy ra vượt khỏi tất cả từ ngữ và sự diễn tả. Nó là trung tâm của mọi sáng tạo; nó là nghiêm túc tinh khiết đã lau sạch sẽ bộ não không còn mọi tư tưởng và cảm thấy; nghiêm túc của nó giống như ánh sét tiêu hủy và đốt cháy rụi; uyên thâm của nó không thể đo lường được, nó ở đó không thể chuyển dịch, không thể xuyên thấu, một khối đồng nhất nhưng lại nhẹ như bầu trời. Nó ở trong đôi mắt, trong hơi thở. Nó ở trong đôi mắt và đôi mắt có thể thấy nó. Đôi mắt mà thấy, mà nhìn khác biệt hoàn toàn đôi mắt của cơ quan và tuy nhiên chúng lại cùng đôi mắt. Chỉ có đang thấy, đôi mắt mà thấy vượt khỏi không gian-thời gian. Có cao quí không thể thâm nhập và một an bình mà là bản thể của tất cả mọi chuyển động, hành động. Không có đức hạnh nào tiếp xúc được nó vì nó vượt khỏi mọi đạo đức và lễ giáo của con người. Có tình yêu mà hủy diệt toàn bộ và vì vậy nó có sự thanh tú của mọi sự việc mới mẻ, mong manh, dễ tổn thương, dễ phá hủy và vẫn vậy nó vượt khỏi tất cả việc này. Nó ở đó bất diệt, không tên tuổi, cái không biết. Không tư tưởng nào đã từng thâm nhập vào nó; không hành động nào đã từng tiếp xúc được nó. Nó “tinh khiết”, trinh nguyên và vì thế đẹp đẽ lạ thường nhưng luôn luôn hủy diệt.

Tất cả việc này dường như gây ảnh hưởng bộ não; nó không còn giống như nó đã là trước kia. (Tư tưởng là một vật thật tầm thường, cần thiết nhưng tầm thường). Bởi vì nó, sự liên hệ dường như đã thay đổi. Giống như một cơn bão tàn phá, một trận động đất hủy diệt tách sông ngòi thành những nguồn mới, thay đổi phong cảnh, đào sâu xuống lòng đất, cũng vậy nó đã san bằng những lệch lạc của tư tưởng, đã thay đổi khuôn mẫu của tâm hồn.

Ngày 30 tháng 7 năm 1961

Một ngày có mây, ảm đạm bởi những đám mây đen; đã có mưa vào buổi sáng và trời trở lạnh. Sau chuyến dạo bộ chúng tôi đang nói chuyện nhưng thật ra chúng tôi đang nhìn ngắm vẻ đẹp của trái đất, nhà cửa và cây cối sẫm màu.

Bỗng nhiên, có một lóe sáng của quyền năng và cái sức mạnh không tiếp cận được đó đang xé tan thân thể. Thân thể lạnh cứng lại biến thành bất động và người ta phải nhắm nghiền đôi mắt lại vì sợ sẽ phải ngất xỉu. Nó đang xé tan hoàn toàn và mọi thứ mà đã là dường như không hiện hữu. Và bất động của sức mạnh đó và năng lượng hủy diệt theo cùng nó, đốt cháy mọi giới hạn của thị lực và âm thanh. Nó là một cái gì đó quá vĩ đại không thể diễn tả được và chiều cao lẫn chiều sâu của nó không thể hiểu được.

Sáng sớm nay, ngay rạng đông, không có một đám mây trên bầu trời và những hòn núi phủ tuyết vừa trông thấy được, thức giấc cùng cảm thấy của sức mạnh không xuyên thủng trong đôi mắt và cổ họng người ta; nó có vẻ là một trạng thái nhận thấy được, một cái gì đó luôn luôn ở đó. Trong gần một tiếng đồng hồ nó ở đó và bộ não vẫn trống không. Nó không là một sự việc có thể nắm bắt được bởi tư tưởng và được lưu giữ trong ký ức để hồi tưởng lại. Nó ở đó và mọi tư tưởng bặt tăm. Tư tưởng thuộc chức năng, chỉ hữu dụng trong lãnh vực đó; tư tưởng không thể nghĩ về nó vì tư tưởng là thời gian và nó vượt khỏi tất cả thời gian và kích thước. Tư tưởng, ham muốn không thể tìm kiếm sự tiếp tục của nó hoặc sự lặp lại của nó, vì tư tưởng, ham muốn hoàn toàn vắng mặt. Vậy thì cái gì ghi nhớ để viết ra sự việc này? Hiển nhiên là sự ghi lại máy móc nhưng điều ghi lại, từ ngữ không là sự việc.

Ngày 18 tháng 8 năm 1961

Đã mưa liên tục gần hết đêm và thời tiết trở nên khá lạnh; có khá nhiều lớp tuyết mới trên những quả đồi cao hơn và những hòn núi. Và cũng có cơn gió lạnh buốt. Những cánh đồng cỏ xanh rực rỡ lạ lùng và màu xanh gây kinh ngạc. Và cũng có mưa hầu như suốt ngày và chỉ gần đến chiều tối mới bắt đầu quang đãng và mặt trời lẫn trong những hòn núi. Chúng tôi đang dạo bộ trên con đường mòn dẫn từ ngôi làng này qua ngôi làng khác, một con đường uốn quanh những ngôi nhà nông trại, chen qua những cánh đồng cỏ màu mỡ xanh tươi. Những cột đèn cao thế mang những sợi dây cáp điện nặng nề, đứng nổi bật tương phản bầu trời buổi chiều; ngước nhìn lên những cấu trúc bằng thép vượt cao tương phản những đám mây chuyển động nhanh và êm ả, có vẻ đẹp và quyền năng. Băng qua một cây cầu bằng gỗ, con suối đầy nước, dâng cao bởi cơn mưa này; nó đang chảy thật nhanh, bằng một uy lực và sức mạnh mà chỉ những con suối núi mới có. Nhìn lên xuống con suối, bị giữ chặt bởi hai bờ nhồi nhét chặt chẽ bởi những tảng đá và cây cối, người ta hiểu rõ được chuyển động của thời gian, quá khứ, hiện tại và tương lai; cây cầu là hiện tại và tất cả sự sống chuyển động và sống qua hiện tại.

Nhưng còn hơn tất cả sự việc này, dọc theo con đường làng lầy lội được rửa sạch bởi cơn mưa, có một cái khác lạ, một thế giới không bao giờ có thể tiếp xúc được bởi tư tưởng của con người, những hoạt động của nó và những đau khổ vô tận của nó. Thế giới này không bao giờ là sản phẩm của hy vọng hoặc của tin tưởng. Người ta không hoàn toàn nhận thức rõ nó vào khoảnh khắc đó, có quá nhiều việc để quan sát, cảm thấy và nhận biết mùi vị; những đám mây, bầu trời xanh lạt ở ngoài những hòn núi có mặt trời lọt thỏm trong chúng và ánh hoàng hôn trên những cánh đồng cỏ lấp lánh; mùi của những chuồng bò và những bông hoa màu đỏ quanh những ngôi nhà nông trại. Cái khác lạ này ở đó đang bao phủ tất cả phong cảnh, không bao giờ bỏ sót một sự vật nhỏ nhoi nào, và khi người ta nằm tỉnh giấc trên giường, nó đổ dồn vào, ngập tràn cái trí và quả tim. Ngay lúc đó người ta nhận thức được vẻ đẹp tinh tế của nó, đam mê và tình yêu của nó. Nó không là tình yêu được thờ phụng trong những hình ảnh, được hồi tưởng bởi những biểu tượng, những tranh ảnh và những từ ngữ, cũng không là tình yêu được che đậy trong ghen tuông và đố kỵ, nhưng tình yêu ở đó đã được giải thoát khỏi tư tưởng và cảm thấy, một chuyển động quanh co, muôn đời. Vẻ đẹp của nó có ở đó cùng tánh tự từ bỏ của đam mê. Không có đam mê của vẻ đẹp đó nếu không có mộc mạc. Mộc mạc không là một sự việc của cái trí, đã được thâu lượm cẩn thận qua hy sinh, đè nén và kỷ luật. Tất cả những việc này phải ngừng lại, tự nhiên, vì chúng vô nghĩa cho cái khác lạ đó. Nó tràn vào bằng phong phú không giới hạn. Tình yêu này không có trung tâm và chu vi và nó quá trọn vẹn, quá mỏng manh đến độ không có một cái bóng trong nó và vì thế luôn luôn có thể bị hủy diệt.

Chúng ta luôn luôn nhìn từ ngoài vào trong; từ hiểu biết chúng ta tiếp tục tăng thêm hiểu biết, luôn luôn thêm vào và lúc giảm đi lại là một thêm vào khác. Và ý thức của chúng ta được tạo thành bởi hàng ngàn sự việc được ghi nhớ và công nhận, ý thức về một chiếc lá đang run rẩy, về bông hoa, về người đàn ông đi qua, về đứa bé đó đang chạy qua cánh đồng; ý thức về tảng đá, con suối, bông hoa đỏ rực rỡ và mùi hôi thối của một cái chuồng lợn. Từ ghi nhớ và công nhận này, từ những phản hồi bên ngoài, chúng ta cố gắng ý thức được những sâu kín bên trong, được những động cơ và những khao khát mãnh liệt sâu sắc hơn; chúng ta tìm hiểu mỗi lúc một sâu hơn vào những chiều sâu vô hạn của cái trí. Toàn qui trình này của những thách thức và phản hồi, của chuyển động thuộc trải nghiệm và công nhận những hoạt động kín đáo và bộc lộ, toàn qui trình này là ý thức bị giới hạn vào thời gian.

Cái tách không chỉ là hình dạng, màu sắc, thiết kế mà còn là khoảng trống không đó phía trong của cái tách. Cái tách là khoảng trống không được vây bọc trong một hình dạng; nếu không có khoảng trống không đó sẽ không có cái tách cũng như hình dạng. Chúng ta biết được ý thức do những biểu hiện bên ngoài, do những giới hạn về chiều cao và chiều sâu, về tư tưởng và cảm thấy. Nhưng tất cả việc này là hình thức bên ngoài của ý thức; từ bên ngoài chúng ta cố gắng tìm được bên trong. Liệu việc này có thể được hay không? Những lý thuyết và những suy đoán không có ý nghĩa lắm; chúng thực sự ngăn cản mọi khám phá. Từ bên ngoài chúng ta cố gắng tìm được bên trong, từ cái đã được biết chúng ta mò mẫm hy vọng tìm ra cái không biết được. Liệu rằng có thể thăm dò từ bên trong ra bên ngoài? Cái dụng cụ thăm dò từ bên ngoài, chúng ta đã biết rồi nhưng liệu rằng có một dụng cụ thăm dò từ cái không biết được đến cái đã được biết hay không? Có không? Và làm thế nào có được? Không thể có được. Nếu có một dụng cụ, nó được công nhận và nếu nó được công nhận, nó ở trong lãnh vực của cái đã được biết.

Phước lành lạ lùng đó đến khi nó muốn, nhưng cùng mỗi chuyến viếng thăm, sâu thẳm bên trong, có một chuyển đổi; nó không bao giờ giống nhau.

Ngày 21 tháng 8 năm 1961

Lại nữa, hôm nay là một ngày có nắng, trong xanh, cùng những cái bóng dài và những chiếc lá lấp lánh; những hòn núi thanh thản, khối đồng nhất và gần gũi. Bầu trời có một màu xanh kỳ diệu, không vấy bẩn và dịu dàng. Những cái bóng phủ đầy quả đất; một buổi sáng dành cho những cái bóng, những cái nhỏ và những cái lớn, những cái nghiêng ngả, dài và những cái mãn nguyện, dày, những cái thô kệch, nặng nề và những cái nhỏ nhắn, vui tươi. Những nóc nhà của những ngôi nhà nhỏ và những nông trại rực sáng giống như đá cẩm thạch láng bóng, những cái mới và những cái cũ. Dường như có hân hoan tưng bừng và reo hò trong cây cối và những cánh đồng cỏ; chúng tồn tại vì nhau và trên chúng là thiên đàng, không phải thiên đàng do con người tạo ra, bằng những hành hạ và hy vọng. Và có sự sống, bao la, tráng lệ, đang đập rộn ràng và đang trải dài mọi phương hướng. Nó là sự sống, luôn luôn tươi trẻ và luôn luôn nguy hiểm; sự sống không bao giờ ở lại, lang thang khắp quả đất, dửng dưng, không bao giờ để lại một dấu vết, không bao giờ đòi hỏi hay cầu xin bất cứ việc gì. Nó ở đó thật phong phú, không có bóng và không chết chóc; nó không bận tâm từ đâu nó đến hoặc nó đang đi đâu. Chỗ nào nó có mặt là sự sống, vượt khỏi thời gian và tư tưởng. Nó là một sự việc tuyệt diệu, tự do, thanh thoát và không soi thấu được. Nó không phải để bị nhốt lại; nơi nào họ nhốt nó, trong những nơi thờ phụng, trong chợ búa, trong nhà cửa, có thối rữa và hư hỏng và sự đổi mới không ngừng của họ. Nó ở đó đơn giản, oai nghi và hủy diệt và vẻ đẹp của nó vượt khỏi tư tưởng và cảm thấy. Nó thật bao la và không thể so sánh đến nỗi nó tràn đầy quả đất và bầu trời và ngọn cỏ héo tàn mau. Nó ở đó cùng tình yêu và chết.

Thời tiết mát mẻ trong cánh rừng, với con suối đang la hét ở phía dưới gần một mét; những cây thông thẳng đứng vút cao lên bầu trời, không một lần thèm cúi xuống nhìn lại quả đất. Quang cảnh ở đó thật tráng lệ với những con sóc đen tuyền đang gặm nhắm nấm cây và rượt đuổi nhau lên xuống những cái cây theo hình xoắn ốc chật hẹp; có một con chim cổ đỏ nhấp nhô lên xuống, hoặc con vật nào đó trông giống như nó. Ở đó thật mát mẻ và yên tĩnh, ngoại trừ con suối có những dòng nước núi lạnh ngắt. Và nó đó kìa, tình yêu, sáng tạo, và hủy diệt, không phải như một biểu tượng, không phải trong tư tưởng và cảm thấy nhưng là một sự kiện thực sự. Bạn không thể thấy nó, cảm thấy nó, nhưng nó ở đó, bao la và hủy diệt, sức mạnh vô song và có sức sống của cái mong manh nhất. Nó ở đó và mọi sự việc trở nên tĩnh lặng, bộ não và thân thể; nó là một phước lành và cái trí thuộc về nó.

Không có kết thúc của chiều sâu; bản thể của nó là không thời gian và không gian. Nó không thể bị trải nghiệm; trải nghiệm là một việc hào nhoáng bên ngoài, dễ dàng có được và cũng dễ dàng mất đi; tư tưởng không thể nào diễn tả được nó và cảm thấy cũng không thể tìm được lối vào. Đây là những sự việc không chín chắn và xuẩn ngốc. Chín chắn không thuộc về thời gian, một vấn đề của tuổi tác, chín chắn cũng không đến nhờ vào ảnh hưởng và môi trường sống. Nó không thể được mua, và cũng không có những quyển sách, những vị thầy hay những đấng cứu rỗi, một người hay nhiều người, đã có lần tạo ra ý nghĩa đúng đắn cho chín chắn này. Chín chắn không là một kết thúc trong chính nó; nó tồn tại mà không cần tư tưởng vun quén, tối tăm, mà không cần thiền định, không biết. Phải có chín chắn, hoàn hảo đó trong sự sống; không phải hoàn hảo được vun quén từ bệnh tật và rối loạn, đau khổ và hy vọng. Tuyệt vọng và nỗ lực cực nhọc không thể mang lại chín chắn tổng thể này nhưng nó phải ở đó, không được tìm kiếm.

Vì trong chín chắn tổng thể này có mộc mạc. Không là mộc mạc của thương khóc và ăn năn sám hối nhưng là của dửng dưng không suy tính trước và tự nhiên đối với những sự việc của thế giới, những đạo đức của nó, những thần thánh của nó, kính trọng của nó, những giá trị và những hy vọng của nó. Tất cả những sự việc này phải được phủ nhận hoàn toàn cho mộc mạc đến cùng cô đơn. Không có một ảnh hưởng nào của xã hội hay văn hóa có thể tiếp cận được cô đơn này. Nhưng nó phải ở đó, không được gợi nhớ bởi bộ não, mà là đứa trẻ của thời gian và ảnh hưởng. Nó phải đến ầm ầm như sấm không từ nơi nào cả. Và nếu không có nó, không có chín chắn tổng thể. Cô độc – bản thể của tự thương xót và tự phòng vệ và cuộc sống trong tách rời, trong hoang đường, trong hiểu biết và ý tưởng – khác hẳn cô đơn; trong cô độc có sự nỗ lực không ngừng nghỉ để hội nhập nhưng luôn luôn tách rời. Sống cô đơn là một cuộc sống trong đó mọi ảnh hưởng kết thúc. Chính cô đơn này là bản thể của mộc mạc.

Ngày 22 tháng 8 năm 1961

Trong không gian có cảm thấy của cái bao la quá sức chịu đựng đó, mãnh liệt và khăng khăng. Nó không là một tưởng tượng hão huyền; tưởng tượng không còn khi có sự thật; tưởng tượng rất nguy hiểm; nó không có giá trị, chỉ sự thật có giá trị. Ý tưởng hão huyền và tưởng tượng gây thích thú và dối gạt và chúng phải đuợc quét dọn sạch sẽ. Mọi hình thức của hoang đường, hão huyền và tưởng tượng phải được hiểu rõ và hiểu rõ này xóa sạch tầm quan trọng của chúng. Nó ở đó, và cái gì đã được bắt đầu như thiền định, kết thúc. Thiền định còn có ý nghĩa gì nữa khi sự thật ở đó! Không phải thiền định mang được sự thật ra, không gì có thể làm sự thật hiện hữu; nó ở đó không cần thiền định nhưng cần phải có một bộ não tỉnh thức, nhạy cảm mà đã kết thúc hoàn toàn, tự nguyện và dễ dàng, sự huyên thuyên của lý luận và không lý luận của nó. Bộ não đã trở nên rất yên lặng, đang thấy và đang nghe mà không đang diễn dịch, mà không đang phân loại; nó yên lặng và không có một thực thể hoặc một cần thiết để bắt buộc nó yên lặng. Bộ não rất tĩnh và rất tỉnh. Cái bao la tràn đầy đêm đó và có phước lành.

Nó không có liên hệ với mọi sự vật; nó không đang cố gắng để uốn nắn, để thay đổi, để khẳng định; nó không có ảnh hưởng và vì vậy không thể bị lay chuyển. Nó không đang làm điều tốt lành, không đang đổi mới; nó không đang trở thành được kính trọng và vì thế rất hủy diệt. Nhưng nó là tình yêu, không phải tình yêu mà xã hội vun quén, một tình yêu hành hạ. Nó là bản thể của chuyển động của sự sống. Nó ở đó không thể lay chuyển, hủy diệt, cùng một mong manh mà chỉ cái mới mẻ biết được, như một chiếc lá non của mùa xuân, và nó sẽ tác động đến bạn. Và có sức mạnh vượt khỏi đo lường, và có quyền năng mà chỉ sáng tạo mới có. Và tất cả sự vật yên lặng. Một vì sao duy nhất đó đang đi qua quả đồi và bây giờ đang ở thật cao và nó sáng rực rỡ trong cô đơn của nó.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/12/2017(Xem: 15644)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
30/11/2017(Xem: 6188)
Định nghĩa. Vô Trước. Vô, nghĩa là không. Trước, nghĩa là dính mắc, bị dính vào, mắc vào, kẹt vào. Cụm từ Vô Trước, nói cho đủ: Không bị dính mắc, kẹt vào. Danh từ kép này, được chỉ cho những hành giả trong đạo phật trên đường tu tập, để tìm cầu cho mình cơn đường giải thoát là không để cái Tâm bị dính vào, mắc vào, kẹt vào sắc trần, nói như pháp môn thiền định “đối cảnh vô tâm. Như vậy, tâm con người thường bị dính trần hay sao, mà pháp thiền phải cảnh giác ? Đúng như vậy, tâm của kẻ phàm phu ưa dính, mắc vào, kẹt vào sắc trần vật chất, ưa trách móc, ưa chấp nê, ưa nghe lời khen ngợi
26/11/2017(Xem: 8825)
Tứ Diệu Đế, 3 Chuyển 12 Hành ------------------------------------------------- Thich-Nu-Hang-Nhu Thích Nữ Hằng Như NGUỒN GỐC Dựa theo "Tiến Trình Tu Chứng và Thành Đạo của Đức Phật", chúng ta biết rằng sau khi Đức Phật từ bỏ pháp tu từ hai vị đạo sĩ Alàra Kàlama và Uddaka Ramàputta đã dạy Ngài bốn tầng Định Yoga là: "Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ", đồng thời từ bỏ luôn pháp tu khổ hạnh kéo dài 6 năm, là một pháp tu đã khiến Ngài suýt mất mạng mà không đạt được thượng trí và Niết Bàn. Sau đó Đức Phật tự chọn pháp Thở để tu tập.
21/11/2017(Xem: 9380)
Từ Kinh Phật Sơ Thời Đến Thiền Đốn Ngộ Giới Thiệu Tác Phẩm “Thiền Tông Qua Bờ Kia” Của Cư Sĩ Nguyên Giác--Trong tác phẩm mới xuất bản “Thiền Tông Qua Bờ Kia” tác giả Cư Sĩ Nguyên Giác kể chuyện buổi đầu ông học Thiền với Hòa Thượng Bổn Sư Thích Tịch Chiếu ở Chùa Tây Tạng tại Tỉnh Bình Dương, Việt Nam như sau: “Tôi nhớ lại buổi đầu gặp Hòa Thượng Tịch Chiếu, hỏi Thầy rằng con nên tập Thiền thế nào, Thầy nói rằng, “Phải Thấy Tánh đã.” Lúc đó, Thầy bảo đứa em kế tôi phải niệm Phật sáng trưa chiều tối, và quay sang đứa em gái kế sau nữa của tôi, bảo nhỏ này là con hãy về đọc bài Bát Nhã Tâm Kinh tối ngày sáng đêm. Tôi hỏi, rồi con cần niệm hay đọc gì hay không, Thầy đáp, con không có một pháp nào hết.”[1]
19/11/2017(Xem: 5014)
Chris Impey là Phó Khoa Trưởng của Đại Học Khoa Học, và là một Giáo Sư Xuất Chúng của Khoa Thiên Văn Học thuộc Đại học Arizona (Hoa Kỳ). Công trình nghiên cứu của ông đặt trọng tâm vào việc phát triển và cung cấp năng lượng của những lỗ đen khổng lồ trong các thiên hà.Ông đã viết hai cuốn sách giáo khoa, một tiểu thuyết, tám cuốn sách khoa học phổ thông, và hơn 250 bài nghiên cứu và bài báo.Khiêm Tốn TrướcHư Không(Humble Before the Void ), một cuốn sách dựa trên những khóa hội thảo được mô tả trong bài báo này, do Templeton Press xuất bản năm 2014
01/11/2017(Xem: 8819)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
25/08/2017(Xem: 21262)
Bản Giác (sách pdf) tác giả: Tiến sĩ Lâm Như Tạng
21/06/2017(Xem: 7238)
* Trong vũ trụ có trùng trùng thế giới. Toàn Giác là bậc câu thông cùng vũ trụ, họ cùng một thể tánh với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ rồi “truyền thần” lại sự thấy biết đó. Để thấy rằng Đức Bổn sư không sáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn sống động từ vô thỉ dù Phật có ra đời hay không.
25/04/2017(Xem: 8638)
Đức Phật đôi khi có đề cập tới tính chất và các thành phần của vũ trụ. Theo Ngài, có nhiều hình thức đời sống hiện hữu ở các nơi khác trong vũ trụ. Với đà tiến bộ nhanh chóng của khoa học ngày nay, có lẽ không bao lâu nữa chúng ta sẽ khám phá ra các loài sinh vật khác đang sống ở các hành tinh xa nhất trong dãi thiên hà của chúng ta. Có thể các chúng sanh nầy sống trong những điều kiện và qui luật vật chất khác, hay giống như chúng ta. Họ có thể hoàn toàn khác chúng ta về hình thể, thành phần và cấu tạo hoá học
24/04/2017(Xem: 8066)
Lời giới thiệu: Chúng tôi viết quyển sách này với mong muốn được trình bày theo cái hiểu và suy nghĩ của riêng mình. Kính mong rằng các bậc cao Tăng thạc đức niềm tình tha thứ nếu có chỗ nào sai xót. Chúng con hàng hậu học, vừa học, vừa tu vừa hướng dẫn lấy Kinh luật luận làm nền tảng. Trước tiên, chúng ta cần phải hiểu biết rõ ràng về Phật giáo và ứng dụng lời Phật dạy trong đời sống hằng ngày. Chuyển nghiệp là quá trình nỗ lực làm cho phàm tính trong con người trở thành Thánh tính của bậc hiền.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567