Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

V. Chư Tổ sư Tây Thiên

12/03/201102:44(Xem: 4124)
V. Chư Tổ sư Tây Thiên

TRIẾT LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

V. Chư Tổ sư Tây Thiên

Khi đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn, ngài truyền lại cho đại đức Ca-diếp đứng đầu giáo hội mà hộ trì Chánh pháp ở Tây thiên. Ngài biết rằng, trong tăng chúng, Ma-ha Ca-diếp là người xứng đáng hơn hết, có thể lãnh lấy trách nhiệm. Như vậy, ngài Ca-diếp trở thánh vị Tổ sư thứ nhất nối truyền pháp Phật.

Từ ngài Ca-diếp trở về sau, chư vị Tổ sư đều là những người tài cao đức lớn, là những vị Bồ-tát xiển dương pháp giáo của Phật truyền lại. Trong lịch sử đạo Phật ở Ấn Độ, có tất cả là hai mươi tám vị Tổ sư, bắt đầu từ ngài Ca-diếp, cho đến ngài Bồ-đề Đạt-ma là cuối, vì Tổ Bồ-đề Đạt-ma mang Chánh pháp sang truyền ở Trung Hoa, sau đó không thấy ghi chép việc truyền nối ở Ấn Độ nữa.

Hai mươi tám vị Tổ sư đã từng làm cho cõi Ấn độ được vẻ vang về mặt đạo lý, cho đến nay dấu xưa tích cũ hãy còn nơi những cảnh chùa tháp cũ. Dần dần về sau, vì lòng từ bi muốn truyền rộng đạo giải thoát, chư vị đem đạo Phật truyền ra các nước ngoài, cho đến vị Tổ thứ hai mươi tám thì đạo Phật qua đến Trung Hoa.

Cho nên khi đạo Phật không còn được hưng thạnh lắm nơi xứ Ấn Độ, thì ngọn đuốc huệ đã bắt đầu soi tỏ các nước khác trên toàn cõi Á châu. Và mỗi nơi cũng đều nhờ ánh sáng đó mà làm nên những công trình vĩ đại, như các nước Miến Điện, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên... đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo Phật trong đời sống văn hóa và tinh thần. Còn như ở Việt Nam ta, lần xem lại những trang sử hiển hách vinh quang của các đời Lý, Trần, cũng có thể thấy rất rõ ảnh hưởng tích cực của đạo Phật.

HAI MƯƠI TÁM VỊ TỔ SƯ TÂY THIÊN

Phật Thích-ca bắt đầu truyền cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp là Tổ thứ nhất, truyền tiếp qua hai mươi tám đời, đến tổ thứ hai mươi tám là Bồ-đề Đạt-ma. Tên tuổi các vị được ghi đủ dưới đây:

01. Ma-ha Ca-diếp (Mahākāśyapa – 摩訶迦葉)

02. A-nan-đà (Ānanda – 阿難陀)

03. Thương-na Hòa-tu (Śānavāsin – 商那和修)

04. Ưu-bà-cúc-đa (Upagupta – 優婆掬多)

05. Đề-đa-ca (Dhītika – 提多迦)

06. Di-già-ca (Miśaka – 彌遮迦)

07. Bà-tu-mật (Theá Höõu, Vasumitra – 婆須密)

08. Phật-đà Nan-đề (Buddhanandi – 佛陀難提)

09. Phật-đà Mật-đa (Buddhamitra – 佛陀密多)

10. Bà-lật-thấp-bà(Hiếp Tôn giả, Pārśva – 婆栗濕婆)

11. Phú-na Dạ-xa (Punayaśa – 富那夜奢)

12. A-na Bồ-đề(Mã Minh, Ānabodhi – 阿那菩提, ,馬鳴)

13. Ca-tì-ma-la (Kapimala – 迦毘摩羅)

14. Long thụ(Nāgārjuna – 龍樹)

15. Ka-na-đề-bà(Thánh Thiên, Kānadeva – 迦那提婆 , 聖天)

16. La-hầu-la-đa(Rāhulabhadra – 羅睺羅多)

17. Tăng-già Nan-đề (Sanghanandi – 僧伽難提)

18. Tăng-già Xá-đa (Sanghayathata – 僧伽舍多)

19. Cưu-ma-la-đa (Kumāralāta –鳩摩羅多)

20. Xà-dạ-đa (Śayata – 闍夜多)

21. Thế Thân (Vasubandhu – 世親)

22. Ma-noa-la (Manorata – 摩拏羅)

23. Hạc-lặc-na (Haklenayaśa – 鳩勒那)

24. Sư Tử Bồ-đề (Sinhabodhi – 師子菩提)

25. Bà-xá Tư-đa (Baśanita –婆舍斯多)

26. Bất-như Mật-đa (Punyamitra – 不如密多)

27. Bát-nhã Đa-la (Prajnādhāra – 般若多羅)

28. Bồ-đề Đạt-ma (Bodhidharma – 菩提達磨)



Trong 28 đời Tổ Tây thiên, có bốn vị là hoàng tử vì mộ đạo giải thoát mà bỏ ngôi vua, lìa mọi sự vinh hoa phú quí ở nhân gian. Ấy là:

1. Tổ đời thứ 17, Tăng-già Nan-đề, con vua Bảo Trang Nghiêm, thành Thất-la-phiệt.

2. Tổ đời thứ 22, Ma-noa-la con vua Thường Tự Tại, nước Ma-đề.

3. Tổ đời thứ 26, Bất-như Mật-đa, con vua Đắc Thắng ở miền Nam Ấn Độ.

4. Tổ đời thứ 28, Bồ-đề Đạt-ma, con vua Hương Chí miền Nam Ấn Độ.

Nếu kể luôn đức Phật Thích Ca, vốn là hoàng tử của vua Tịnh Phạn tại Ca-tỳ-la-vệ, thì trong 29 đời Phật Tổ, có tất cả năm vị hoàng tử bỏ ngôi vua chúa mà đi tu hành và truyền bá giáo lý.

Phật truyền đạo năm trăm năm trước Dương lịch. Các Tổ sư nối nhau mà giữ mãi đến đời thứ hai mươi tám là năm trăm năm sau Dương lịch, nghĩa là Phật pháp thạnh hành trong một ngàn năm ở Ấn độ.

Đạo Phật bắt đầu phát triển mạnh ở Trung Hoa kể từ một ngàn năm sau khi Phật diệt độ, vì Tổ sư Đạt-ma sang Quảng đông vào năm 520. Bắt đầu từ đây, Trung Quốc được truyền bá Phật giáo chân truyền, khỏi phải có những sự lầm lạc như trước. Khoảng trăm năm sau nữa, ngài Huyền Trang qua Ấn Độ để tìm học Phật pháp với các cao tăng Ấn Độ và thỉnh về Trung hoa rất nhiều kinh điển.

1.

TỔ MA-HA CA-DIẾP

摩訶迦葉祖



Ngài sanh ra tại xứ Ma-ha-tích-tha, là đệ tử được Phật giao cho trách nhiệm lãnh đạo và điều hành Giáo hội sau khi Phật nhập diệt.

Tên của ngài viết đầy đủ là Ca-diếp-ba, Hán dịch là Ẩm Quang. Ngài là người giữ theo lời dạy của Phật rất nghiêm túc, từng được Phật khen là Đầu đà đệ nhất, tức là tu theo lối khổ hạnh khắc khổ hơn hết trong các đệ tử của Phật. Từ lúc nhỏ, lòng mộ đạo và tấm lòng thanh bạch của Ngài đã nổi tiếng khắp nơi rồi.

Đến tuổi trưởng thành, ngài Ca-diếp thưa với cha mẹ rằng: “Khi cha mẹ còn tại thế, xin cho con lo phần phụng dưỡng. Đến khi cha mẹ mãn phần, con sẽ xuất gia cầu đạo.”

Bà mẹ lấy làm lo lắng về việc ấy, chỉ muốn ngài phải lập gia đình, sinh con cái để nối nghiệp nhà. Ngài biết vậy, muốn tìm cách làm cho mẹ bớt lo lắng, liền thuê người tạc một tượng mỹ nữ, mặc áo đẹp và trang điểm giống như người thật. Rồi ngài mang tượng ấy cho mẹ xem và nói rằng: “Thưa mẹ, khi nào con gặp một người giống như pho tượng này thì con xin cưới làm vợ.” Ý ngài làm thế là muốn kiếm cớ để kéo dài thời gian, tránh được sự thúc ép của cha mẹ về việc lập gia đình. Bởi vì, chỉ là một pho tượng ngẫu nhiên làm ra, làm sao lại có người giống với tượng ấy?

Không ngờ bà mẹ tin thật lời ấy, liền nhờ mấy người Bà-la-môn đem pho tượng ấy đi khắp nơi để tìm người. Họ đến xứ Xá-kiệt-la, để pho tượng ấy bên bờ một con sông và ngồi cách đó xa xa nhìn.

Lúc ấy, người vú nuôi của cô Bạt-đà vừa đi xuống sông để tắm. Vú già thấy pho tượng từ xa thì nghĩ rằng: “Quái lạ! Sao hôm nay tiểu thư lại mặc y phục lạ thế này?” Vú già chạy lại xem, vả nhẹ trên má mới biết đó chỉ là một pho tượng, mà sao giống hệt cô Bạt-đà. Mấy người Bà-la-môn quan sát thấy hết mọi việc, mới đến gần vú già dọ hỏi. Bà vú già đưa họ về nhà ông Cố-xi-da-gô-ta, được tiếp đãi rất niềm nở. Sau khi trình bày việc đi tìm người của mình rồi, họ xin được lưu lại đó mấy hôm và gởi thư về cho ông Ca-bi-la là cha của ngài Ca-diếp, trình bày việc đã tìm được người và dặn ông nên đưa lễ sang hỏi cưới.

Ngài buộc lòng vâng lời cha mẹ mà cưới vợ. Nhưng cả ngài và cô Bạt-đà đều không ai muốn kết dây ân ái. Vì vậy, trong hai mươi năm sống chung một nhà, họ chỉ cư xử với nhau như hai người bạn mà bên ngoài không ai biết cả.

Đến khi cha mẹ đã qua đời, ngài Ca-diếp và nàng Bạt-đà liền bàn nhau cùng xuất gia nhập đạo. Ngài Ca-diếp nhờ đạo tâm vốn đã rất thuần thục, nên chỉ vừa xuất gia được chín ngày đã chứng đắc thánh quả A-la-hán.

Về sau, ngài có làm bài kệ dưới đây để chỉ rõ sự lợi ích trong cuộc thoát trần:

Hễ là giữ phận nhà sư,

Việc đời dầu được, dầu hư chớ sờn.

Lánh mình nơi chốn lâm sơn,

Chẳng màng so sánh thua hơn làm gì.



Kẻ nào vui sướng ly bì.

Thì phần Chánh đạo lạc đi xa đàng.

Làm sư, danh lợi chớ màng,

Giữ mình cho khéo mới sang được bờ,



Chớ nên đày ải thể cơ,

Thân hình khổ nhọc, khó chờ tính an.



Đại đức Ma-ha Ca-diếp cũng có làm bài kệ sau đây để tả phong cảnh đẹp chỗ ngài ưa thích:

Mấy nhà hiền đức xưa nay,

Ai mà lại chẳng vui vầy cảnh xinh?

Những là sơn thủy hữu tình,

Rừng cao cây phủ tươi xanh bốn mùa.



Đá hoa rực rỡ chen đua,

Xa nghe có tiếng voi đùa cùng nhau.

Giọt mưa rỉ rả lào xào.

Ngồi trên hòn đá cảm bao nhiêu tầng!

Những là non núi bao giăng,

Thoảng chừng có bóng sư tăng qua vùng.

Tư bề êm ái vô cùng,

Lâu lâu nghe có tiếng công kêu chào.

Cảnh tình vui thích làm sao!

Tham thiền nhập định lúc nào cũng yên.

Ví mình muốn dứt nợ duyên,

Khá tìm cảnh tịnh mà chuyên dưỡng thần.

Non cao là chốn tu thân,

Hồng trần giải thoát, dự phần Phật Tiên.



Khi ngài Ca-diếp đã già, biết mình sắp tịch, liền gọi A-nan-đà đến và dạy rằng: “Lúc trước, khi Phật nhập diệt, có dặn ta rằng về sau có thể giao quyền chấp chưởng Giáo hội lại cho ngươi. Nay ngươi hãy cố gắng làm tròn trách nhiệm ấy. Hiện nay trong thành Vương-xá có Thương-na-tu là người trí huệ và đức hạnh, chính là người về sau có thể làm Tổ sư đời thứ ba, tiếp nối cho ngươi đó.”

Rồi ngài lại nói rằng:

“Ngày xưa, Phật có phó chúc Chánh pháp cho ta. Nay ta đem giao lại cho ngươi. Vậy ngươi khéo hộ trì Chánh pháp ấy. Hãy nghe kệ đây:

Pháp pháp bổn lai pháp,

Vô pháp vô phi pháp.

Hà ư nhất pháp trung

Hữu pháp hữu phi pháp?

Dịch nghĩa

Pháp là pháp tự xưa nay

Pháp và phi pháp thảy rày vốn không.

Tại sao trong một pháp ròng,

Pháp và phi pháp thảy đồng dự chen?



Sau đó, ngài Ca-diếp đến từ biệt vua A-xà-thế nhưng không gặp vua, ngài mới đi thẳng vào núi Kê-túc, chọn một chỗ hang động và phát lời nguyện rằng: “Thân thể này nguyện sẽ còn mãi cho đến khi đức Di-lặc ra đời thành Phật độ sanh.” Ngài phát nguyện xong, mặt đất rung rinh chấn động.

Hôm sau, vua A-xà-thế nằm ngủ, chiêm bao thấy cây trụ cái trên trời đột nhiên gãy đổ. Vua hoảng hốt. Thức dậy mới hay tin rằng ngài Ca-diếp đã tịch.

Vua cùng với Tổ A-nan-đà vào núi Kê-túc. Khi ấy cửa động liền tự mở ra để hai người nhìn thấy được ngài Ca-diếp và lễ bái ngài lần cuối. Vua than khóc rất lâu rồi mới trở về.

Đến nay người ta vẫn truyền rằng, trong núi Kê-túc, ngài Ca-diếp hiện vẫn còn ngồi, thân thể không hề hoại mất, chờ khi đức Di-lặc đản sanh ngài sẽ trở lại cõi thế.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 12043)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14918)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
22/08/2021(Xem: 3442)
Đây là bài thứ 4 và cũng là bài sau cùng trích dẫn một số câu liên quan đến giáo lý của Đức Phật. Bài 4 này gồm tất cả 80 câu được chọn lọc từ một bài gồm 265 câu trên một trang mạng tiếng Pháp : https://www.evolution-101.com/citations-de-bouddha/. Các câu này chủ yếu được rút tỉa từ kinh Dhammapada (Kinh Pháp Cú) và các kinh trong phẩm thứ tư của Tam Tạng Kinh là Anguttara Nikaya (Tăng chi hay Tăng nhất bộ kinh)
24/06/2021(Xem: 4169)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 16486)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12468)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7755)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19918)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11589)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9052)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567