Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22. Đạo Phật ở Huế và vấn đề văn hóa xã hội

11/01/201115:42(Xem: 6563)
22. Đạo Phật ở Huế và vấn đề văn hóa xã hội

THỨC BIẾN

Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

ĐẠO PHẬT Ở HUẾ VÀ VẤN ĐỀ VĂN HÓA XÃ HỘI

Hòa thượng Thích Thiện Siêu,
Trú trì Tổ đình TừĐàm, Huế
trả lời phỏng vấn Phóng viên Tạp chí Sông Hương tháng 5/1990 - Huế

-ooOoo-

Phóng viên (PV): Kính bạch Hòa thượng, lầnđầu tiên Phóng viên Tạp chí Sông Hươngđược Hòa thượng tiếp, nhân dịp này xin Hòa thượng cho biết cảm tưởng về TCSH trong những năm qua?

Hòa thượng Thích Thiện Siêu (HT.TTS):Tôi không có dịpđọc thường xuyên Tạp chí Sông Hương, nên không có cảm tưởng chính xác và sâu sắc, nhưng theo sự nhận xét của một số thân hữu không có tính cách toàn diện thì Tạp chí Sông Hương cũng như dòng sông Hương trong giai đoạn này hầu như tiến triển có vẻ "lững lờ yếu yếu".

PV:Dư luận xã hội đang lo lắng về tình hình mê tín dị đoan đang lan tràn khắp nơi, xin Hòa thượng cho biết nguyên nhân vì sao mê tín dịđoan lại phát triển như thế?

HT.TTS:Có phải thật có tình hình mê tín dịđoan đang lan tràn khắp nơi không? Theo tôi dư luận xã hội đang lo lắng về tình hình mê tín dị đoan đang lan tràn khắp nơi thì ít mà lo lắng về tình hình xa hoa truỵ lạc, tham ô nhũng lạm, cửa quyền làm mất lòng dân và nạn thất nghiệp gia tăng nhiều. Vì những thứ sau này, mới tác hại chođất nước, cho con người.

Còn mê tín dị đoan hay không mê tín dị đoan, cần phải phân tích mới khỏi nói hồ đồ. Theo tôi có hai lối tín ngưỡng, một tín ngưỡng của tôn giáo và một tín ngưỡng của nhân gian. Tín ngưỡng tôn giáo cứ trên nềnđạo lý, học thuyết bởi một đấng giáo chủ khởi xướng, có hệ thống từ nội dung đến hình thức, có quy cũ học hỏi, hành trì như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Ấn Độ giáo... Còn tín ngưỡng thông thường theo trìnhđộ dân trí của mỗi địa phương, nơi này có lối tin này, nơi khác có lối tin khác, không có căn cứ lý trí, chỉ cốt thoả mãn tình cảm, cầu an, tai qua nạn khỏi hay cầu phúc lợi hiện thời. Trong lối tín ngưỡng nhân gian này lắm lúc có lúc làm cho suy nhược tinh thần, tính mạng, tài sản, chẳng hạn nhưđốt vàng mã, uống tàn nhan, nước thảiđể chữa bệnh... Như vậy xã hội có lo lắng chăng là lo lắng cho lối tín ngưỡng nhân gian mang nhiều hình thức mê tín này, nhưng không phải là trầm trọng lắm. Còn dị đoan là chữ củađạo Nho tự cho mình là chínhđạo, còn đạo Dương, đạo Mặc không phải là Đạo mà chỉ là một lối tín ngưỡng, học thuyết khác mà thôi.Đạo Nho đã dùng câu "Công hồ dịđoan", có nghĩa công kích đạo Dương, đạo Mặc, từ đó ta mới quen dùng chữ "dị đoan" ghép chung với chữ "mê tín" để chỉ cho lối tín ngưỡng vô căn cứ và khác với điều tín ngưỡng của mình. Sở dĩ có tình trạng mê tín dịđoan, trước hết phải nói là vì tập truyền kém hiểu biết chưa được cải thiện, tiếp đó là tâm trạng bất an vì nội tâm, tham vọng, vì cuộc sống miếng cơm manh áo còn nhiều nỗi bấp bênh, ngang trái, mất lòng tin...

PV:Dư luận cũng lo lắng về tình hình "đạo đức xuống cấp", nhất là giới thanh niên. Theo Hòa thượng muốn giải quyết vấn đề này, xã hội-đặc biệt là báo chí, cần làm những việc gì?

HT.TTS:Muốn giải quyết vấn đề này, xã hội, đặc biệt là báo chí nên làm những việc sau đây:

a. Đả phá tinh thần bài bác Tôn giáo một cách mù quáng, thiếu cơ sở khoa học và khiếm nhã

b.Truyền bá đúng đắn các quan điểm vật chất, tinh thần, hiện thực và siêu thực, lối sống lịch sử, văn minh, văn hóa và đạo đức.

c. Khuyến cáo lớp trẻ tránh xa những nơi ăn chơi trụy lạc, khuyên họ nên đến những nơi có giáo dục đạo đức tốt, bất cứ ở đâu như ở đoàn thể, ở học đường, ở Tôn giáo. Nếu khi thấy một lớp tuổi trẻ đến đó mà chúng có thể thay đổi được thói hư tật xấu, thì không ngần ngại gì mà không viết bài phát huy, khích lệ, động viênđể nơi đó được tiến triển thêm. Mặt khác, phải làm hạn chế sự phát triển ồ ạt các loại hàng cà phê, quán nhậu, các điểm chiếu vidéo... có ảnh hưởng đến sự sa sút đạo đức của thanh thiếu niên.

d. Gương mẫu đạo đức phải có, từ tư tưởng đến lời nói và việc làm. Về địa hạt báo chí, người chủ báo, làm báo cho người khácđọc, khi viết về đạo đức, thì người chủ báo, làm báo phải thực sự có đạo đức thì báo chí mới tránh khỏi bệnh nói suông.

PV:"Tu" theo đúng nghĩa từ này là góp phần làm lành mạnh xã hội. Hòa thượng cho biết cuộc vậnđộng chính của Phật giáo hiện nay để góp phần xây dựng đời sống văn hóa- xã hội.

HT.TTS:Phát xuất từ tinh thần từ bi và trí tuệ, Phật giáo chế lập ba môn học là Giới học, Định học và Tụê học để xây dựng cho con người từ mặt đạo đức, trí tuệ hùng lực, vô ngã vị tha; từ thấp lên cao, thoát ly dần tính hữu ngã, cố chấp hẹp hòi, để đạt đến tính vô ngã vị tha rộng lớn. Những ai muốn có một cuộc sống ý nghĩa sẽ tìm thấy ở Phật giáo những điều giúp họ mở rộng lòng, rộng trí, để biết sống chan hòa với mọi người, mọi vật. Từ lâu Phật giáo luôn luôn phát huy lý tưởng đó thông qua việc phổ biến kinh sách, báo chí, hành thiện, diễn giảng đạo lý, tổ chức những buổi tu học, không những cho lớp người lớn tuổi mà ngay cả lứa tuổi thanh thiếu niên. Đặc biệt, để giáo dục tín ngưỡng đạo đức cho lứa tuổi thanh thiếu niên, con cháu trong những gia đình thuần thành tin Phật, Phật giáo đã quy tụ các cháu lại trong "Gia đình Phật tử"để giáo dục cho thích hợp theo tuổi trẻ vàđã thu hoạch kết quả rất tốt. Biết bao gia đình đã gửi con em mình đến Gia đình Phật tử nhờ sự giáo dục mà mình có được những người con có hiếu đạo, biết yêu thương vật, kính trên nhường dưới, trung thành với Tổ quốc, tránh cho gia đình cũng như xã hội biết bao nhiêu điều tai hại. Song đáng tiếc, những việc làm này còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế, nên đã làm giảmđi phần lớn sự đóng góp của Phật giáo vào việc xây dựng thanh thiếu niên lành mạnh, xây dựngđạo đức xã hội lành mạnh.

PV:Hòa thượng có nhận xét gì về hiện tượngđồng bào miền Bắc "Đi hành hương về xứ Huế" ngày càng đông, những người ấy có nguyện vọng gì? Và các chùađã có những sinh hoạt gìđể thoả mãn yêu cầu của những ngườiđi hành hương? Ngành du lịch Huế có thể hợp tác với các chùa để tổ chức cho đồng bào vào Huế hành hương không?

HT.TTS:Không những đồng bào miền Bắc mà cả đồng bào miền Nam gầnđây đi hành hương tại Huế ngày càngđông, theo tôi nghĩ có nhiều lý do:

1. Huế ở vào vị trí chính giữa hai miền đất nước, đã từng một thời gian làm trung tâm lịch sử, chính trị, văn hóa, Phật giáo. Thế nhưng đã nhiều năm tháng chiến tranh, gặp phải trở ngại nên đồng bào miền Bắc, miền Nam khó đi hành hươngđến Huế được. Ngày nay nước nhà thống nhất, Nam Bắc một nhà, đường giao thông thuận lợi, nên đồng bào ước vọng đến Huế để tận mắt nhìn thấy một vùng đất quê hương mang nhiều tính đặc thù như vừa nói trên.

2. Huế có nhiều chùa danh tiếng, lại có nhiều thắng cảnh, di tích văn hóa của dân tộc; đồng bào Nam Bắc đến thăm Huế để thấy rõ nét xây dựng của dân tộc trong một giaiđoạn lịch sử quan trọng của quá khứ, đồng thời chiêm bái Phật tổ, thăm các vị cao Tăng mà họ quen biết, thăm chùa Từ Đam - nơi phát xuất cuộcđấu tranh của Phật giáo chống chế độ và chính sách của Diệm đàn áp Phật giáo vào năm 1963, thăm các ngôi chùa dù trải qua nhiều biến thiên vẫn giữ được nét cổ kính cũng như vẻ cảnh tân hòa nhịp với vẻ thiên nhiên của sông núi.

3. Huế là đất bànđạp để mở rộng biên cương của Tổ quốc. Tôi từng nghe có các đồng bào miền Nam khi đi hành hươngđến Huế thổ lộ rằng: "Chúng tôi biết tổ tiên xa xôi của chúng tôi từ miền Trung đi vào Nam lập nghiệp, nên chúng tôi ước ao trong đời mình có một lần đến Huế thăm". Họ đã nói với tôi câu đó trong vẻ vui mừng xúc động khi gặp tôi tại chùa TừĐàm trênđất Huế.

4. Và như một cán bộ ở Bắc đến Huế công tác đã trên 10 năm, hôm nọ dẫn thân hữu đến thăm chùa Từ Đàm, trong lúc nói chuyện, vị cán bộ ấy giới thiệu với bạn mình rằng: "Người Huế rất lịch sự, ăn nói dịu dàng". Lại một lần khác, tôi nhờ một Phật tử Huế dẫn mấy người khác từ xađến Huế, đi chợ Đông Ba. Khi khách hỏi mua khăn, chủ quán lấy khăn cho họ xem, vì thấy khăn mỏng, không ai mua. Chủ quán vui vẻ treo khăn trở lại không nói gì. Mấy người khách đã nhận xét: "Chị bán khăn tử tế quá. Khi chúng tôi không mua trả lại, lòng rất hồi hộp, vì nghĩ thế nào chị ta cũng nóiđôi câu nặng nhẹ hoặc vài tiếng mắng mỏ nặng lời, nhưng chị bán khăn này lại tỏ vẻ tự nhiên vui vẻ... " Đó phải chăng cũng là những biểu hiện nếp sống văn minh, văn hóa mà người Huế đã có được. Vậy nguyên do từđâu người Huế có được cách xử thế đó, thiết tưởng TCSH nên tìm hiểu và phát huy rộng rải thêm.

Vì lẽ ấy, nên khi có đoàn hành hương nào đến chùa xin tá túc, chúng tôi đều hoan hỉ chấp nhận, dù chùa rất thiếu tiện nghi cho một số đông người ăn ở. Chúng tôi hướng dẫn họ lễ Phật, kể sơ lai lịch và giảng cho họ ítđiều Phật pháp, vì họ không có rộng thì giờ để sinh hoạt nhiều. Tôi chưa nghĩ đến việc hợp tác với nghành du lịch để tổ chức cho đồng bào đến Huế hành hương, nhưng tôi mong rằng khi các đồng bàođến Huế hành hương luôn gặpđược sự đối xử dịu dàng, lịch sự của mọi người, mọi giớiđể tạo niềm thông cảm giữa Huế và các bạn phương xa.

PV:Tạp chí Sông Hương của Huế - Thành phố cốđô và cũng là trung tâm Phật giáo lớn ở Việt Nam, theo hòa thượng, Tạp chí Sông Hương nên có những nội dung gìđể thoả mãn phần nào yêu cầu của bạnđọc, trong đó có nhiều người theo đạo Phật trong thời gian sắp đến?

HT.TTS:Không những Huế mà hầu hết các thành phố, các tỉnh trong cả nước, số người theo đạo Phật cũng không ít. Còn muốn nói Huế là một "Trung tâm Phật giáo lớn ở Việt Nam" cũng có thể nói như thế được. Nhu cầu muốn thoả mãn vềđạo Phật của nhân dân Huế hiên tại quá lớn, e rằng Tạp chí Sông Hương do nội dung hạn chế của tờ báo, khó lòng làm thoả mãn yêu cầu của bạn đọc nói chung và bạn đọc Phật tử nói riêng. Nếu thỉnh thoảng đăng một vài bài liên hệ với Phật giáo mà không được thẩm định cẩn thận hoặc phỏng vấn với các ban nghành có chức năng của Giáo Hội, hoặc có lúc thiên lệch và tùy tiện phóng tác nội dung, chủ đề v.v... thì chỉ gây nên tai hại, làm mất tin tưởng vào thái độ vô tư, chín chắn của một cơ quan ngôn luận có trách nhiệm, nổi lên những hiểu biết đúng đắn và phản ánh trung thực sự hiểu biết và nguyện vọng của quần chúng nhân dân.

Ví dụ cụ thể: Tôi còn nhớ một số Tạp chí Sông Hương cóđăng truyện với đầu đề rất Phật giáo làNiết-bàn bốc cháy. Độc giả đọc bàiđó nhiều người thấy bực mình vàđã có người muốn góp ý, gởi bài nhậnđịnh phê bình cho rộngđường dư luận, thì Tạp chí Sông Hương không đăng. Vì sao? Do tháiđộ thiên lệch hay do không có trách nhiệm đối với vấn đề ấy? Nếu quả là Tạp chí Sông Hương có thái độ thiên lệch thì khó gậy nổi lòng tin của đa số bạn đọc với tờ báo, khi muốn tờ báo trở thành một tạp chí vì lợi ích của toàn dân. Đó là tôi chưađề cập đến việc truyện Niết-bàn bốc cháyđã dựng thành phim và trước khi đem công chiếu rộng rãi có chiếu thử tại trụ sở Công ty Phát hành phim và vidéo trung ương 3 tại Thành Phồ Hồ Chí Minh ngày 3.2.90 cho các đơn vị đại diện chính quyền thành phố và đại diện Ban Văn hóa Giáo hội Phật giáo xem thử. Tại đây đều có ý kiến của các vị đại diện nhắc nhở, đề nghị phải thận trọng xét lại kiến thức Phật giáo thiếu nghiêm túc của cốt truyện, thế nhưng sauđó cuốn phim vẫn được chiếu nơi này nơi khác. Như vậy chỉ gây ngộ nhận về Phật giáo nơi những người chưa biết hoặc chỉ biết mù mờ về đạo Phật, rất dễ làm người dân-nhất là Phật tử, nghi ngờ tinh thần trách nhiệm của các cơ quan có liên quan.

PV:Mong rằng những ý kiến chân tình, thẳng thắn của Hòa thượng sẽđược tác giả "Niết-bàn bốc cháy" cũng như những nhà văn, nhà báo nghiên cứu tiếp nhận, để những bài viết liên quanđến Phật giáo tránh được những sai xót đáng tiếc.

Xin cảm ơn Hòa thượng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/01/2017(Xem: 9837)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 28284)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15405)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 9783)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 7294)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 5291)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 12963)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 12879)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 17345)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 35297)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]