Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19. Vài nhận xét về nghi lễ trong Phật giáo

11/01/201115:39(Xem: 6278)
19. Vài nhận xét về nghi lễ trong Phật giáo

THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

VÀI NHẬN XÉT VỀ NGHI LỄ TRONG PHẬT GIÁO

Nghi lễ là một bộ phận sinh hoạtkhông thể thiếu được trong Phật giáo. Tuy nhiên, sinh hoạt đó gần như chiếm hếtthì giờ trong đời sống người xuất gia hiện nay! Nếu nghi lễ không được đặt đểtrong khuôn khổ chính đáng của Phật pháp, không được dùng với mục đích mượnhình thức để tuyên dương Phật pháp, dẫn kẻ sơ cơ vào đạo, dùng nghi lễ để điềuhòa tình cảm và lý trí, làm sao cho con người được nhịp nhàng tiến bộ như ngườixưa chế ra nó, thì nghi lễ sẽ thiếu năng lực đưa người vào chánh đạo, và có tácđộng xấu đến tâm lý, sẽ gây ngộ nhận đối với quần chúng. Nghi lễ khi đã khôngđi đúng quỹ đạo làm phương tiện phụng sự đạo pháp, chắc rằng người đời sẽ mãicho đạo Phật là mê tín, dị đoan, thoái hóa, ru ngủ quần chúng.

Nói như thế, nhưng Phật giáo có nênbỏ hẳn nghi lễ được không? Theo tôi, không thể được. Vì tất cả các tôn giáo,đoàn thể giữa thế gian này không ai là không dùng nghi lễ để phục vụ cho tínngưỡng của mình. Nếu Phật giáo bỏ phần đó tức là đã bỏ rơi một số người muốnquay về với Chánh pháp. Hơn nữa, đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, dùng bốnvạn tám ngàn pháp môn phương tiện để đưa người đến bờ giải thoát. Đức Phật,ngoài giảng dạy trực tiếp cho các Tỷ-kheo, Tỷ kheo-ni, các nam nữ cư sĩ, Ngàicòn lấy tâm truyền tâm cho Tôn giả Ca-diếp gọi là "Niêm hoa vi tiếu".Kinh luận Phật giáo Đại thừa thường hay nhắc câu chuyện: Một hôm, trong hộichúng đông đảo, đức Thế Tôn không nói gì khi Ngài ngồi trên Pháp toà, im lặngnhư Chánh Pháp. Thính chúng ai nấy cũng im lặng. Lúc ấy Thế Tôn nhẹ nhàng đưamột cành hoa lên trước đám đông, hội chúng không ai hiểu gì trước cử chỉ có ýnghĩa của đức Thế Tôn. Chỉ có Tôn giả Ca-diếp im lặng mỉm cười và Thế Tôn mỉmcười hoan hỷ. Câu chuyện lấy tâm truyền tâm chỉ có một nụ cười trực ngộ giảithoát là như vậy, cho nên trong Phật giáo, ngoài phần tâm truyền phải có phầncông truyền thì mới tùy cơ giáo hóa chúng sinh được. Trong phần công truyền,hình thức nghi lễ là một, và thực tế nó đã có một nhiệm vụ lớn lao, cảnh tỉnhđa số quần chúng mà căn cơ chỉ duyên cảm để tin Phật trước khi cần hiểu đểtheo.

Nghi lễ Phật giáo có công năng tốtđẹp như thế, vậy thì tư cách của người thi hành nó phải như thế nào để quầnchúng Phật tử và người đời khỏi hiểu lầm là Phật giáo lợi dụng hình thức nghilễ để buôn bán thánh thần? Theo tôi, nghi lễ ngày nay cần chú ý các mặt sauđây:

- Tư cách người thi hành lễ phảixứng đáng, để gây sự tôn kính và tin tưởng Tam Bảo trong lòng mọi người.

- Tránh mọi hình thức rườm rà, thiếutrang nghiêm trong khi hành lễ. Phải giữ điều cần yếu khi hành lễ là ThànhtâmKính Phật.

- Không xen lẫn những hình thức nghilễ của ngoại đạo vào Phật giáo, hoặc đem nghi lễ Phật giáo thi thố ở những nơità đạo. Nghĩa là phải nhận thức đại cương về các nghi lễ, trong đó thứ nào nêntránh và thứ nào nên theo. Thiết nghĩ, chúng ta nên chia ra các mục sau đâytrong nghi lễ Phật giáo.

1. Thờ tự

Thờ tự có nhiều ý nghĩa. Thờ vớitính cách tri ân như thờ cha mẹ, sư trưởng. Thờ với tính cách tôn kính như thờcác vị anh hùng hiền triết trong lịch sử. Đối với người xuất gia, khi làm lễthọ giới pháp của Phật chế, trước hết, họ phải làm lễ lạy tạ cha mẹ, từ đó vềsau trên danh nghĩa là một người "nhân thiên nhãn mục", không còn trởlại bái phục quân vương, phụ mẫu nữa. Tuy nhiên, người xuất gia cũng luôn luôntưởng niệm các vị ân nhân, nhất là ân cha mẹ và cầu nguyện hết thảy đều đượcsiêu sanh Lạc độ. Duy nhất, với tính cách vừa tri ân vừa tôn kính đối với bậcĐạo sư chỉ đường thoát khổ, người xuất gia nên thờ Tam Bảo mà thôi. Nhưng Tam Bảotheo quan niệm Bắc tông và Nam tông khác nhau. Theo quan niệm Nam tông thì chỉthấy Phật trong một đời. Khi ngài nhập diệt rồi thì Phật thân đã an trú trongcảnh Niết-bàn, nhưng họ tin vào Phật, họ tín ngưỡng, tôn thờ như Phật còn tạithế. Vậy nên, các nước theo Nam tông như Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến điện,Tích Lan... họ thờ Phật là cốt để tri ân Đấng giáo chủ ban bố Chánh Pháp chochúng sinh đã qua đời, hơn là để mong cầu cảm ứng. Trái lại, theo quan niệm Bắctông, với pháp nhãn đạt quang, thấy Phật khắp cả mười phương, thông suốt tươngtục vô thỉ vô chung, ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai không gián đoạn tâm Phậttrong mỗi người thờ Phật như Việt Nam, Trung Hoa, Nhật bản, Đại Hàn, Mông Cổ...Vì vậy, họ thờ Phật vừa để kỷ niệm, mà cũng vừa cầu sự cảm ứng gia hộ cho đệ tửtrên bước đường tu tập. Họ quan niệm: Phật thường trú thế gian, nên một khitượng Phật đã tôn thờ trên toà sen tức xem như Phật còn tại thế, Ngài luôn luônnhìn thấy hành động của đệ tử mà cảm ứng đạo tâm, hiển hiện Phật lực để an ủi,khuyên răn và gia trì hộ niệm.

Thế nhưng, ở Việt nam chúng ta ngàynay vấn đề thờ tự đã trở nên phức tạp nhiều. Một ngôi chùa đúng lý để thờ TamBảo hoặc thờ Tam Thế Phật nhưng nơi lại thờ luôn Quan Thánh, Ngọc hoàng, Thánhmẫu, Thập điện như nhiều chùa thuộc khu vực miền Nam và miền Trung. Thờ luôn cảthánh mẫu thì nhiều nhất là các chùa miền Bắc. Đó là chưa nói thờ nhiều hìnhtượng khác không dính dáng gì đến đạo Phật. Thế gian, một số người cho rằng,bất cứ tượng nào, hễ lọt vào mắt nhà chùa cũng trở nên linh thiêng, đưa vàochùa thờ được cả, thậm chí còn có cả ông địa nữa. Tệ hại hơn có người không thờtại chùa, lại bày vẽ a tòng những nơi thờ thiếu trang nghiêm, có vẻ tà mị yêuquái, mê tín dị đoan...

Đau lòng thay! Một ngôi chùa đáng lýđể làm nơi tập Chúng tu hành, hoằng dương Chánh pháp, lại biến thành một ngôichùa riêng độc quyền chiêm ngưỡng, hoặc lấy đó làm nơi cúng kiến để nuôi thân.Dầu có nơi khá hơn, trong chùa cũng thờ Phật, nhưng lại thiếu tấm lòng thànhkính, tôn trí những hình tượng Phật và Bồ-tát không có tướng hảo trang nghiêm,lại còn treo những ảnh tượng hình thù kỳ quái ở hai bên bàn thờ, cắm những tờbùa, câu chú trước điện Phật. Thật là một điều tội lỗi lớn, như trong kinh TạoTượng đã nói. Với những ngôi chùa như vậy, mục đích là chỉ biết cúng kiến, nàođâu phải vì vấn đề giải thoát sanh tử đại sự, tập Chúng tu học cầu mong giảithoát. Thảm thương thay! Một lối thờ cúng như vậy lại làm cho Đạo Phật suy yếubiết dường nào.

2. Cúng kính

Đã có thờ tất nhiên có cúng. Vì nhớân, trọng nghĩa mà cúng, vì linh khí kẻ mất người còn giao cảm nhau mà cúng.Nhưng với người xuất gia thì thường chỉ cúng Tam Bảo mà thôi. Ngoài ra, vì sựlợi tha và báo hiếu, người xuất gia có thể cúng vọng tiến linh, cúng thí thực,cô hồn, kỳ an, kỳ siêu. Tuy nhiên, trong những cách cúng nói trên, một số ngườiđã quá lạm dụng nghi lễ, biến nó trở nên phức tạp và cầu kỳ, khiến cho quầnchúng cảm thấy nhà Sư là ông thầy cúng nhiều hơn là một vị tu hành để truyền báChánh pháp. Dưới mắt Phật tử và quần chúng đối với các nhà Sư trên, hầu như mụcđích của nhà Sư là cúng, cho đến chí nguyện của nhà Sư cũng chỉ cúng mà thôi.

Trong thời trước, tôi thấy thế gianbiết cúng một chuyện thì nhà Sư biết cúng trăm chuyện, thế gian biết một vịthần thì nhà Sư biết đến trăm vị thần. Ngoài lối cúng kiến nói trên, nhà Sư cònthạo cúng đất, cúng sao, cúng nam thương, yểu tử, cúng giải đàn oan, sai phan,sai phướng, cúng ngũ hành, thổ địa, hạ khoán, sai muội, cúng thánh, cúng thần,cúng tiên nương, Tôn giả, bổn mạng, bà mẫu... Lại còn cúng tốt vườn, tốt đất,tốt nhà, tốt bếp, cúng đưa ông Táo về trời... Bởi vậy chốn Già-lam mất hẳn tínhcách trang nghiêm thanh tịnh, không thể tập Chúng tu hành, tuyên dương chánhgiáo. Ngược lại, chùa trở thành nơi tập trung mọi sự cúng kính vì lẽ này hay kếnọ. Thậm chí có nơi còn khuyên tín đồ thờ cúng, lạy lục quỷ thần hơn lạy Phật,mà quên đi rằng: Người Phật tử đã quy y Tam Bảo là phát nguyện: Quy y Phật,thề không quy y thiên thần quỷ vật.Nếu không tỉnh ngộ, chánh pháp vì vậycàng xa, tà pháp càng gây hoạ cho người. Thật xót thương thay!

3. Lễ phục

Theo Phật chế, ba pháp y là áo mặcduy nhất của Tăng đồ, và khi thọ giới, Tăng-già đã nguyện mặc y phấn ảo, một ytrong ba y để làm trang phục hoạt dung hàng ngày như thuyết pháp, hành lễ, thọtrai... Vì đó là y phước điền, y giải thoát, không gì hơn nữa, miễn là giới đứctinh nghiêm thì đó là sự trang sức, là lễ phục đẹp nhất để cúng dường Tam Bảovậy.

Nay vì quốc độ, và tùy theo phongtục khác nhau, Phật giáo Bắc tông đã cải hóa theo thế nghi, tạo thành một lốilễ phục rườm rà hơn trước. Khi đến Việt Nam, nó lại cải hóa thêm một lần nữa.

Một chuyện đau lòng mà vào thời tôiđã chứng kiến, đó là sự phục sức lai hóa đến mức khó chịu. Thế nhưng nó vẫn cứlà cái mẫu lai tạpcủa thời đại trong Phật giáo. Những nhiễu y viền kimtuyến, nhưng đôi giày Tàu gắn bông đỏ, được mang vào một cách trịnh trọng và tỏvẻ sang trọng hào nhoáng trong mỗi kỳ đại lễ. Trong những lễ này, dẫu ai tuhành cho mấy mà thiếu cái y kim tuyến, đôi giày Tàu thì cũng phải nhường chỗcho người có nó đứng làm chủ lễ. Lẽ tất nhiên, khi mang chiếc y đẹp thì nó bắtngười mang phải nhớ nó hơn nhớ Phật, chú trọng mình hơn trọng người khác. Vìvậy, buổi lễ thiếu hẳn tinh thần cao quí vốn có của nó. Nhớ lại lời di huấn củaPhật: Pháp dục diệt thời ca-sa biến vị ngũ sắc, thì hiện trạng y phụcnày thật đáng buồn! Tôi nghĩ, những lễ phục, nhạc điệu đơn thuần mà đứng đắn,điều hòa mà tôn nghiêm có lẽ giữ cho buổi lễ tăng phần trang trọng lợi lạc hơn.

4. Truyền giới

Lễ truyền giới cũng là lễ thườngxuyên và thiết yếu của Tăng-già như lễ truyền giới Tam qui, Ngũ giới, Bát quantrai giới, Cụ túc giới và Bồ-tát giới, nhưng cũng phải theo quy tắc đã chỉ dạytrong các bộ Đại học Hoằng giới, Yết-ma Chỉ nam, Thọ giới Nghi Quỷ hoặc trongLuật tạng; và người truyền cũng như người thọ phải thành tâm thành kính, biếttôn trọng giới thể mới được. Nếu không thì lễ thọ giới chỉ là một kiểu mẫu thờitrang, trong đó người truyền không biết truyền gì, còn người thọ không biết thọgì, thế mà vẫn truyền, vẫn thọ.

Khi sắp Niết-bàn, đức Phật đã ân cầndặn dò: "Giới Ta còn thì như Ta còn, giới Ta còn thì đạo ta còn". Nhưthế, truyền giới là lễ rất quan trọng định đoạt sự nghiệp còn mất của Phậtgiáo.

Tóm lại, theo tôi: Nghi lễ có côngdụng gần quần chúng, làm phương tiện tiên phong để truyền bá đạo Phật. Thếnhưng, một khi vai trò tiên phong đã không đi đúng pháp, không hướng người theochánh pháp thì chỉ dẫn người vào ma đạo mà thôi. Vậy để văn hồi địa vị cao cảcủa đạo Phật, tất cả Tăng giới phải chỉnh đốn hết thảy mọi mặt mà trong đó cócả nghi lễ. Về nghi lễ, phải chỉnh đốn như thờ tự đơn giản, sự cúng kính phảitrang nghiêm, gạt bỏ những lối thờ cúng thần đạo ra ngoài, lễ phục cũng như tưcách người thực hành nghi lễ, đều phải chỉnh đốn đúng Luật và trang nghiêm mớimong gây được thiện cảm và tín tâm trong lòng người muốn quay về với đạo.

Tôi hy vọng những điều nhận xét trênđây được chư Tăng, Ni đồng cảm và nếu thấy sai thì nên sửa chữa. Tôi cũng mongGiáo hội sẽ sớm đưa ra các nghi thức hành lễ chung cả Tăng tín đồ toàn quốc ápdụng, hầu đem lại lợi lạc cho Phật giáo vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/01/2017(Xem: 9869)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 28841)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15662)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 9943)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 7339)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 5339)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 13160)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 12958)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 17507)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 35646)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]