Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan

11/01/201115:29(Xem: 6875)
10. Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan

THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

Y KINH GIẢI NGHĨA, TAM THẾ PHẬT OAN

Khi đức Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn,hàng đệ tử Thanh văn rất lo lắng, rằng sau khi đức Phật nhập diệt rồi thì sẽkhông có bậc đạo sư để nương tựa. Đức Thế Tôn biết và Ngài đã an ủi họ: "Nàycác Tỷ-kheo, thế gian vô thường, có sanh phải diệt, các ngươi hãy tinh tấn đểgiải thoát mình. Pháp và Luật [*] Như lai đã dạy cho các ngươi lâu nay, chínhđó là đức Thầy cao cả của các ngươi, nếu Ta có ở đời lâu hơn nữa cũng khôngkhác."

[*] Pháplà những lời dạy về giáo lý, về chân lý của sự vật như Vô thường, Vô ngã, Tứđế, Thập nhị nhân duyên, lục căn lục trần, thập bát giới... Pháp sau này đượckiết tập thành Kinh tạng. Luật là những điều răn cấm, những điều giới, sau nàykiết tập thành Luật tạng. Pháp và Luật như vậy đã trở thành một nền giáo lý màđức Phật đã truyền lại cho đến nay.

Mặc dầu đức Phật đã căn dặn như thế,nhưng khi Ngài nhập diệt chưa bao lâu thì đã có nhiều người không hiểu, thậmchí còn hiểu sai lầm về Pháp mà Ngài đã truyền dạy, ngay cả một vị sư già thờiấy cũng nằm trong số đó.

Một sáng kia, Tôn giả A-nan-đa đắp ycầm bình bát đi khất thực, khi đi ngang qua một tịnh xá thì gặp chú tiểu đangngâm nga câu kệ: "Nhơn sanh bách tuế, bất kiến thủy lão hạc, bất nhưsanh nhất nhật, đắc kiến thủy", nghĩa là: "Người sống trăm năm,không thấy con hạc già, chẳng bằng sống một ngày, mà thấy được con hạcgià". Tôn giả A-nan-đa lấy làm thắc mắc, liền quay lại hỏi chú tiểu:

- Này Sa-di, ai dạy chú câu đó?

- Thưa trưởng lão, Thầy con dạy nhưthế. Thầy con còn nói đó là lời dạy của đức Phật nên bắt con phải học thuộclòng câu ấy.

Tôn gỉa A-nan-đa phân vân quá, lạinghĩ: Mình là vị cao tăng hầu cận bên đức Thế Tôn, Ngài dạy điều gì mình đềughi nhớ rất kỹ nhưng chưa hề nghe câu này! Tại sao Thầy kia lại dạy cho đệ tửcâu đó? Ngài cố suy nghĩ và chợt nhớ ra trong kinh Pháp Cú, đức Phật dạy như thếnày: "Nhược nhơn thọ bách tuế, bất kiến sanh diệt pháp, bất như sanhnhất nhật, đắc kiến sanh diệt pháp". Nghĩa là: "Nếu người sốngtrăm tuổi mà không thấy pháp vô thường sanh diệt [*]. Chẳng bằng sống chỉ mộtngày mà thấy được pháp sanh diệt vô thường".

[*] Nămuẩn sanh diệt tức là các pháp do nhân duyên hòa hợp. không thường trú.

Nghiên cứu giáo lý của đức Phật,chúng ta đều biết rằng Luật biến chuyển vô thường của vũ trụ là một chân lý, làmột sự thật. Đạo Phật gọi đó là Chân như, là bản thể của sự vật. Nếu ai khônghiểu đúng sự vô thường của vạn vật thì họ sẽ chấp trước cái tướng, rồi sinh rađắm đuối say mê cái ngã nên mới sinh triền phược gây khổ đau. Ngược lại, nếuhiểu được luật vô thường của sự vật thì trí mới sáng, tâm mới trong, khi ấy mớimong trừ được nhũng điều vô minh để sống cuộc đời tự tại.

Lời đức Phật dạy có ý nghĩa sâu xanhư thế, nhưng vị sư già đã dạy cho đệ tử như vậy. Tôn giả A-nan-đa nhân nghechú tiểu đọc đã hiểu rằng: Sự hiểu lầm nguy hại đã tồn tại qua bao nhiêu nămtháng như thế này thật đáng tiếc.

Đức Phật dạy:

"Yoca vassatam jive
Apassam udayavyayam
Ekaham jivitam seyya
Passato udayavyayam"

Nghĩa là:

"Ai sống một trăm năm
Không thấy pháp sanh diệt,
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sanh diệt"-(PC 113)

Tôn giả A-nan-đa đã sửa lại và biểuchú tiểu học thuộc lòng câu Pháp Cú này đúng như lời đức Phật dạy: "Nhượcnhơn thọ bạch tuế, bất kiến sanh diệt pháp, bất như sanh nhất nhật, đắc kiếnsanh diệt pháp"[*]. Chú tiểu đã học theo lời Tôn giả A-nan-đa chỉ.

[*] Phápcú câu 113 do ngài Liễu Tham dịch từ Pàli ra Hán văn. Hòa thượng Thiện Siêuchuyển dịch từ Hán văn sang Việt văn.

Đến khi về tinh xá, vị Bổn sư nghechú tiểu đọc câu kinh mà Tôn giả A-nan-đa đã sửa lại cho, vị Bổn sư của chúnghe lạ tai quá bèn hỏi chú tiểu:

- Này con, ai chỉ cho con đọc nhưthế? Ta đã chỉ cho con đọc như thế này tại sao con đọc như thế kia?

Chú tiểu trả lời:

- Thưa Thầy, đó là Trưởng lãoA-nan-đa dạy con đọc như vậy.

Vị Bổn sư của chú tiểu thốt lênrằng:

- Ôi chao, Trưởng lão A-nan-đa bâygiờ già quá và lú lẫn rồi, chớ biết chi nữa mà con nghe ổng, khổ chưa!

Chúng ta biết rằng Tôn giả A-nan-đacó tiếng là đa văn đệ nhất. Bao nhiêu lời dạy của đức Thế Tôn, Tôn giả đều ghinhớ hết. Tôn giả được ví như là biển cả chứa đựng tất cả lời dạy của đức ThếTôn, thế mà bây giờ vị sư già đó cho rằng: Tôn giả già rồi lú lẫn! Than ôi,thật là đại hoạ cho Phật pháp! Cách đức Phật nhập diệt không bao lâu năm thángmà vị sư già kia đã diễn đạt sai ý của Phật thì chắc trên thế gian này cho đếnnay đã có không biết bao nhiêu người hiểu sai lời dạy của đức Thế Tôn. Tôi đoánchắc là nhiều lắm.

Giáo lý của đức Phật trong 49 nămthuyết pháp truyền lại cho chúng sinh thật vô cùng thậm thâm vi diệu. Ngày naycác nhà khoa học và xã hội học khi nghiên cứu kinh Phật chừng nào họ càng thánphục chừng ấy, thế mà thật đáng tiếc, trong hàng ngũ chúng ta đã có người khônghiểu đúng lời Phật dạy! Khi đã không hiểu đúng như sự vật là vô thường, vô ngãthì chính lòng họ đã hướng dẫn đời sống họ trở nên mê mờ tối tăm, không nhữngkhông đem lại lợi ích cho mình mà còn không đem đến lợi ích cho bao nhiêu chúngsinh khác.

*

Tóm lại, nếu chúng ta hiểu đúng giáolý của đức Phật thì sẽ đem đến lợi ích, không hiểu đúng giáo lý của đức Phậtthì sẽ không lợi ích mà lại còn làm tổn thương hoài bão lớn lao của chư Phật,rằng chư Phật ra đời là vì lợi ích cho chúng sinh. Vì vậy những ai, dù xuất giahay tại gia, đã là đệ tử của Phật thì phải cố gắng học và hiểu cho đúng giáo lýcủa đức Phật hầu lấy đó làm một phương thuốc hay, hầu đối trị căn bịnh tham, sân,si, ngã mạn và vô minh tối tăm, để cuộc đời mình được thăng hoa, như hoa senvượt lên khỏi bùn, toả hương thơm cho đời

Đức Phật dạy: "Giáo lý củaTa ví như chiếc bè qua sông, khi qua thì không được vác bè đi theo".Qua sông ở đây là chỉ cho giải thoát và giác ngộ. Giải thoát cho bản thân mìnhvà giác ngộ cho mọi loài.

Đừng theo vết sai của vị sư giàkhiến cho hàng hậu học hiểu sai lời Phật dạy, nên chư Tổ đã bằng đủ mọi cáchdạy dỗ kinh luật luận cho lớp lớp Tăng Ni và Phật tử từ đời này qua đời khác đểkhỏi bị thất truyền. Chính vì thế, mà đạo Phật khi truyền vào Việt Nam vào thếkỷ thứ I, bắt đầu từ đó, đời sống của các nhà sư đã hòa nhập với toàn dân nêncó nhà viết sử đã nói: "Những lúc bị Bắc thuộc đô hộ, có khi chủ quyềnquốc gia bị lung lay, nhưng các nhà sư biết đoàn kết toàn dân lại nơi ngôichùa. Nhờ sự đoàn kết ấy mà sau này dân tộc ta đã đánh tan giặc phương Bắc vàgiành lại độc lập cho đất nước. Đó cũng nhờ một phần các vị Thiền sư yêu nướcđã đem sự giác ngộ của mình góp sức xây dựng đất nước để bảo vệ độc lập tựdo".

Chúng ta cũng biết rằng người cócông lập ra triều đại nhà Lý là Lý Công Uẩn - mà Lý Công Uẩn lại được đào tạotrong chốn Thiền môn. Cho nên, triều đại Lý Công Uẩn được Giáo sư Hoàng XuânHãn nói là một triều đại thịnh trị nhất, kéo dài hơn 200 năm. Sau khi đánh đuổiđược Bắc thuộc thì triều đại đó là triều đại độc lập dài nhất trong lịch sửViệt Nam, mặc dầu có khoảng chúng ta bị đô hộ nhưng sự độc lập của các triềuđại Lý, Trần, Lê là một sự độc lập vững vàng. Sau này, mặc dầu dân tộc ta cólúc bị thực dân đô hộ nhưng chúng ta vẫn giữ được độc lập toàn vẹn cho đến ngàyhôm nay, để sánh vai cùng năm châu thế giới. Trước đây, người ngoài biết dântộc ta là nước Đông Dương chứ không biết tên Việt Nam, thì ngày nay họ đã biếtdân tộc ta là Việt Nam, trong đó có công lao của các vị Thiền sư và cư sĩ theođạo Phật.

Vì vậy, để tiếp tục sự nghiệp củacác vị thiền sư xưa của chúng ta, các ngài vừa truyền đạo đồng thời cùng chungvới dân tộc lo xây dựng đất nước, cho nên Đạo pháp và Dân tộc gắn liền nhau làvậy. Lịch sử đã chứng minh rằng hễ Phật giáo thịnh thì dân tộc thịnh, Phật giáosuy thì dân tộc suy, nó luôn luôn đi song song với nhau.

Để kết luận, tôi xin kể câu chuyệnThiền như sau:

Các Tổ ngày xưa dạy rằng: Học đạonhư người tìm trâu. Trâu ví như tâm mình. Trâu ấy đem là chỉ cho phiền não.Người học đạo là người tìm lại cho tâm mình, thấy lại tâm mình để khỏi bị thahóa. Nếu không nhìn lại mình tất nhiên sẽ bị tha hóa. Tha hóa vì danh lợi vàcảnh sắc bên ngoài. Hình ảnh trâu trắng là biểu thị tâm trong sáng, thanh tịnh.Còn trâu đen là tâm còn vẩn đục, còn vị tha hóa. Nếu bị tha hóa chừng nào thìtâm bất an chừng đó. Đức Phật dạy nguyên nhân của khổ chính là bất an. Muốn cóhạnh phúc thì trước hết phải an tâm. Ai không an tâm thì người đó không có hạnhphúc. Đó là sự khác nhau giữa ngoại đạo và giáo lý của đức Phật.

Có một lần ngoại đạo Dona thấy đứcPhật ngồi một mình, bèn đến hỏi:

- Sa-môn Cồ-đàm có gì sầu muộn khôngmà ngồi một mình như thế?

- Ta mất gì mà Ta sầu muộn? Đức Phậttrả lời.

- Ngài không sầu muộn thì chắc Ngàiđang hoan hỷ?

- Ta được gì mà Ta hoan hỷ? Ngài trảlời.

Ngoại đạo Dona rất ngạc nhiên. Ở đờikhông hoan hỷ thì sầu muộn, không sầu muộn thì hoan hỷ. Ông ta phân vân quá.Ngài liền nói tiếp: "Sầu muộn chỉ đến đối với người có tâm hoan hỷ, hoanhỷ chỉ đến với người có tâm sầu muộn. Ta đã vượt ra khỏi sầu muộn và hoan hỷ,nên Ta không còn vướng bận gì đến sầu muộn hay hoan hỷ. Do đó, Ta là Phật, ThếTôn". Tâm Phật chính là an tâm tự tại vô ngại vậy. Người học Phật phảibiết như thế.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2018(Xem: 10983)
Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong được sự lượng thứ của các bậc cao minh. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả sẽ giúp bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi. NVT
06/12/2018(Xem: 4464)
Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu không có từ bi thì không có đạo Phật. Đạo Phật là con đường diệt khổ, vậy thì từ là đem vui, bi là cứu khổ, còn gì đúng hơn nữa khi nói đạo Phật là đạo của từ bi ? Nhưng người ta cũng có thể tự hỏi : có thể nào thâu gồm lại đạo Phật trong hai chữ từ bi ? Liệu từ bi có đủ để định nghĩa đạo Phật, để phân biệt đạo Phật với các tôn giáo và triết thuyết khác ? Nói một cách khác, có thể nào xem từ bi như là một đặc điểm của đạo Phật ? Nhìn chung quanh, chúng ta thấy đạo giáo nào cũng chủ trương tình thương bao la, rộng lớn, như lòng bác ái của đức Ky Tô, thuyết kiêm ái của Mặc tử. Nhưng chỉ có đạo Phật mới nổi bật lên bằng sự đề cao trí tuệ. Có thể nói rằng trong suốt lịch sử tư tưởng nhân loại, không có một tôn giáo nào đặt trọng tâm vào vai trò của trí tuệ hơn là đạo Phật. Bởi vì Buddha (Phật) phát xuất từ chữ Phạn bud, có nghĩa là hiểu biết. Đức Phật là người đã hiểu biết trọn vẹn, đã tỉnh thức, đã giác ngộ, l
02/12/2018(Xem: 9691)
Thời gian gần đây nhiều Phật tử đã yêu cầu tôi giải thích những lời dạy vô giá của Phật theo phương cách hiện đại, xử dụng thuật ngữ và diễn giải thực tế, có hiệu quả, thực tiễn và không quá cao siêu. Theo phương cách dễ hiểu và thực tế để áp dụng trong đời sống hằng ngày. Đây là tập sách đầu của một chuỗi những tập sách nhằm mục đích đáp ứng những thỉnh cầu này. Đây là tập sách sưu tập gồm 50 lời dạy ngắn kèm theo chú giải chi tiết dài ngắn khác nhau, mục đích để khuyến khích tất cả những vị đã dành thời gian để đọc và thực hành những lời dạy này để phát triển sự hiếu biết chân thật và lòng từ bi.
26/11/2018(Xem: 12717)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
04/09/2018(Xem: 8893)
Tu Tứ Đế Pháp, Bốn Chân Lý Chắc Thật, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi Chứng Đạo dẹp tan sự quấy nhiễu của ma quân ở cõi Trời Tha hóa thứ sáu vào nửa đêm ngày mùng 8 tháng 2 năm Tân-Mùi. Việt lịch Năm 2256 HBK*. Tr.BC.596. Sau Thời Hoa Nghiêm Phật đến vườn Lộc Dã Uyển truyền dạy Bốn Pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị từng theo Phật cùng tu thuở trước, thành bậc Tỳ Khưu đắc đạo. Năm vị đó là: 1/. A Nhã Kiều Trần Như, 2/. A-Thấp Bà, (Mã-thắng) , 3/ .Bạt-Đề, 4/. Ma-Ha-Nam, 5/. Thập-Lực-Ca-Diếp. Năm Vị nghe pháp Tứ Đế rồi, tu tập chứng A La Hớn Quả. Tứ Đế Pháp: 1. Khổ Đế. 2. Tập Đế. 3. Diệt Đế. 4. Đạo Đế. -Khổ Đế, là Ác quả của Tập Đế. -Tập Đế, là tạo Nhân xấu của Khổ Đế. -Diệt Đế, là Thiện quả của Đạo đế. -Đạo Đế, là Nhân tu của Diệt Đế.
13/08/2018(Xem: 7307)
Các Phân Khoa Phật Giáo Thích Thái Hòa Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu. Trong Phật giáo có năm phân khoa như sau: 1/ Phật giáo Đại chúng Thời Phật, xã hội Ấn Độ phân chia thành bốn giai cấp, gồm: - Bà-la-môn (Brāhmaṇa): Giai cấp Tăng lữ, giai cấp học giả của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Họ tự nhận sinh ra từ miệng Phạm-thiên. Giai cấp này làm mai mối giữa thần linh với con người. Họ có sáu quyền hạn: Tự ý làm đền thờ trời; làm thầy tế để tế trời; tự ý đọc Phệ đà (veda); dạy người khác đọc Phệ đà (veda); tự bố thí và tự nhận sự bố thí.
03/06/2018(Xem: 25025)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
17/03/2018(Xem: 11684)
Con người càng ngày càng đông đảo trên thế gian nhưng từ trước đến nay có được bao người giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng, khổ đau? Cho dù, Phật Pháp có đơn giản, dễ dạy đến đâu nhưng khi mà nhân duyên chưa tới với những kẻ độn căn thì cho dù bồ tát có tái sinh, cố tâm chỉ độ pháp Phật cao siêu vi diệu cho nhân sinh còn đầy vô minh cũng chỉ tốn công vô ích, chẳng khác gì đem đàn gảy cho trâu nghe. Một trong những pháp môn đơn giản nhứt của Phật Pháp đó là thiền định (Zen). Zen khả dĩ có thể giúp cho hành giả giảm bớt căn thẳng tâm thần. Nếu luyện tập chuyên cần, Zen có khả năng giúp thân tâm có đủ sức mạnh lẫn nghị lực tinh thần để chuẩn bị đối phó với trở ngại xãy ra. Zen có thể giúp ta hóa giải tâm lý lúc mà đau khổ tái phát làm khổ tâm thân trong cuộc sống thay vì mong tu hành giác ngộ, giải thoát, thành Phật quá xa vời. Cũng như những pháp môn khác, Zen có mục đích giúp ta lúc “đa tâm bấn lo
14/03/2018(Xem: 11602)
Sài Gòn- Trần Củng Sơn- Sáng ngày Thứ Sáu 9 tháng 3 năm 2018, giáo sư Vũ Thế Ngọc đã trình bày về triết học của Tổ sư Long Thọ tại chùa Xá Lợi Sài Gòn với sự tham dự khoảng một trăm thiện hữu tri thức Phật Giáo. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc- một cây bút nổi tiếng trong nước về những bài viết về tuổi trẻ và Phật Giáo- đại diện Ban tổ chức giới thiệu diễn giả.
13/03/2018(Xem: 12626)
Từ lúc sinh ra, tất cả chúng ta muốn sống một đời sống hạnh phúc và đó là quyền của chúng ta. Tuy nhiên, nhiều người cùng chia sẻ quan điểm rằng hệ thốn giáo dục hiện hữu của chúng ta là không đầy đủ khi đi đến việc chuẩn bị cho con người yêu thương hơn – một trong những điều kiện để hạnh phúc. Như một người anh em nhân loại, tôi nguyện làm cho mọi người biết rằng tất cả chúng ta cùng sở hữu những hạt giống của từ ái và bi mẫn. Có một bộ não thông minh chưa đủ; vì chúng ta cũng cần một trái tim nhiệt tình
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]