Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Đại ý kinh Vu Lan

11/01/201115:23(Xem: 6046)
05. Đại ý kinh Vu Lan

THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

ĐẠI Ý KINH VU LAN

CÁCHBÁO HIẾU TRONG ĐẠO PHẬT

Công ơn nuôi dưỡng cha mẹ thật nhưtrời cao biển rộng khó nghĩ tận cùng. Đạo Nho đã nói: "Công ơn cha mẹ trờicao khó kịp". Kẻ làm con dĩ nhiên phải nghĩ đến cách báo đáp công ơn sanhthành của cha mẹ, vì đây là một bổn phận cao quý trong đạo làm người; bất luậnthời nào hoặc phương sở nào cũng không thể xao lãng đi được.

Nếu có người nương nhờ ơn cha mẹ màđến ngày công thành danh toại, lại chỉ biết có một mình mình chứ không đoáihoài gì đến cha mẹ, xem cha mẹ như người khách lạ qua đường... Nếu có người connhư thế dĩ nhiên gọi là người con bất hiếu, đã trốn tránh bổn phận thiêng liêngvậy.

Song sự báo ơn cha mẹ có rất nhiềucách, nó không thể giống nhau theo một quy tắc, thể thức nhất định làm cho chamẹ nhẹ bớt thống khổ, tăng thêm vui lành... Có người báo ơn cha mẹ bằng cáchlàm cho cha mẹ an hưởng thứ vui tinh thần khoan khóai hoặc hưởng cái vui ngắnngủi, vui lâu dài, vui nặng nề hay vui siêu thoát. Tóm lại, đàng nào cũng gọilà hiếu, đàng nào cũng tìm cách đem lại sự an vui cho cha mẹ, nhưng xét kỹ thìchỉ có cách đem lại cho cha mẹ sự an vui siêu thoát đời đời mới thật hoàn toànđạt thấu mục đích báo hiếu mà thôi.

Kinh Vu Lan Bồn chính là một kinhPhật dạy chúng ta cách báo hiếu ấy, báo hiếu chính đáng, cứu độ viên mãn để cáctiền nhân nhẹ gánh oan khiên, lần thoát vòng luân hồi đau khổ. Chúng ta khôngthể không hiểu qua đại ý của kinh trong khi chúng ta muốn tìm một phương phápchơn chán để báo bổ thâm ân.

Trong kinh Vu Lan, Phật dạy chochúng ta rõ:

1. Có nhân thì có quả

Nhân quả là một định luật hiển nhiênkhông thể nào sai chạy được. Ở nơi hoàn cảnh cũng như ở nơi thân tâm, hễ đã gâynhân gì thì tất nhiên có quả báo nấy để thù đáp lại, tuy vô hình nhưng rất bìnhđẳng, không bao giờ gây nhân lành mà phải chịu quả báo khổ, cũng không bao giờgây nhân dữ mà được hưởng quả báo vui. Bởi vậy, bà mẹ Tôn giả Mục-kiên-liên saukhi đã sanh tâm tham lam bỏn xẻn mà gây nghiệp nhân không tốt đến lâm chungphải chịu quả báo đoạ đày trong đường ngạ quỷ, đói khát ốm gầy, đến nỗi gặpđặng bát cơm của Tôn giả Mục-kiền-liên dâng cúng, nhưng vì nghiệp tham của bàquá nặng mà cơm kia bỗng biến thành lửa đỏ cháy hừng không thể nào ăn được.

2. Nhân quả đều do tâm

Tuy vậy nhưng không phải: "mộtkiếp lỗi lầm là muôn đời đau khổ". Trong kinh có dạy: "Tâm năng sanhnhứt thiết pháp", vậy biết rằng tất cả pháp đều do tâm. Tâm tạo nên nghiệplành, hiện thành cảnh giới chư Thiên tốt đẹp, tâm tạo nên nghiệp dữ hiện thànhcảnh giới địa ngục xấu xa, tâm tu theo đạo Bồ-đề, gây nhân giải thoát thì đượctự tại yên vui ngoài vòng luân hồi sanh tử, vậy nên mặc dù chúng sinh ở tronghoàn cảnh tuy khổ cực cũng có thể hoán cải tâm niệm mình theo con đường chánhđáng tốt lành. Khi tâm đã tốt thì cảnh giới cũng tùy tâm mà trở nên vui đẹp. Cứxét ngay nơi tâm niệm hiện tại của chúng ta thấy rõ. Khi tâm ta nghi ngờ độc ácthì cảnh vật nào cũng là cảnh vật khả ố xấu xa. Khi tâm ta hiền rộng rãi thìcảnh vật nào cũng đẹp đẽ vui tươi. Địa ngục thiên đàng nào phải ở đâu xa lạ!

Do lẽ đó mà bà mẹ Tôn giảMuc-kiền-liên tuy đã sanh vào ngạ quỷ cũng có thể chuyển đổi tâm niệm nghiệpnhân, đặng giải thoát khỏi chỗ tối tăm cực khổ.

3. Hiệu lực của chú nguyện

Chúng ta đã biết địa ngục, thiênđàng cũng chỉ tự mình tạo ra và chịu lấy, kẻ làm con nếu muốn cho cha mẹ mìnhkhỏi lâm vào cảnh tương lai đau khổ, thì không chi bằng cố gắng làm cho cha mẹbỏ ác làm lành, cải tà quy chánh dù cho cha mẹ đã qua đời cũng có cách báo đáphoàn toàn được.

Phật dạy tất cả sự vật trùng trùngduyên nhau mà phát hiệ,n nên tâm niệm của chúng ta cũng trùng khắp và duyêncùng cả vũ trụ không khác nào một làn sóng nhỏ cũng lan khắp cả đại dương, nhưánh sáng của vì sao cũng chiếu cùng quả đất. Bởi vậy, tiền nhân xa cách đến đâuchúng ta cũng có thể đem tâm niệm đại hiếu, tu hành mà cảm thông và thaychuyển. Chỉ sợ rằng sức tu hành của chúng ta kém cỏi, định lực không bao nhiêu,tợ hồ như ánh sáng của một vì sao nhỏ, làm sao thay đổi cho một cảnh vật càngthêm tươi sáng?! Chúng ta không thể không nhờ đến định lực của nhiều vị tu hànhtinh tấn, chú nguyện cho mới mong thay đổi dễ dàng thân tâm cùng cảnh giới nơimỗi người. Các vị tu hành tinh tấn ấy phần nhiều là chúng Tăng chuyên tu trongba tháng hạ.

Xưa kia Tôn giả Mục-kiền-liên tuy tuhành chứng đến lục thông, nhưng với đạo lực một mình vẫn không sao cứu vớt từmẫu, đã phải nhờ đến sức chú nguyện của mười phương Tăng trong ngày Tự tứ mà mẹcủa Tôn giả liền thoát khỏi vòng ngạ quỷ, hóa sanh cảnh giới chư Thiên an lạc.

*

Ngày nay, chúng ta nếu muốn báo hiếuđối với tiền nhân một cách viên mãn, trước hết chúng ta nên tin tưởng vào bađiều đã lược nói ở trên. Chúng ta tin rằng cảnh khổ vui đều do tâm niệm và tâmniệm có thể thay đổi, xấu trở nên tốt một cách dễ dàng, khi nhờ có sức chú tâmcủa nhiều vị tu hành có định lực. Chúng ta cũng thường thấy các nhà thôi miênhọc chỉ gia công tập luyện và tập trung tư tưởng đôi phần mà họ có thể sai sửkẻ đối phương hành động theo ý chí của họ. Nếu với các bậc tu hành, có một tâmhồn thanh tịnh, có định lực mạnh mẽ thì chắc hiệu lực sẽ tăng lên bội phần, vàvới các đấng Giác ngộ thì không thể nào tính lường được.

Chúng ta tin tưởng như thế và chítâm bố thí cúng dường Tam Bảo, chúng Tăng, làm việc hiếu nghĩa trong ngày Tăngtự tứ (rằm tháng bảy) để cầu mong được mục đích báo hiếu hoàn toàn của kẻ biếtlàm con.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2012(Xem: 9877)
Sángnay nắng vàng rực rỡ. Những tia nắng trong suốt xuyên qua các cành cây kẻ lánơi tinh xá Kỳ Viên. Trên các lối mòn, những con đường chung quanh khu vườn đượctươi hẳn lên, tỏa mùi thơm thoang thoảng, hương vị những bước SakyAmuniBuddha248chân thiền hành củaĐức Thế Tôn. ..Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng...
30/12/2011(Xem: 7335)
Trên đời này có hai thứ cao quý nhất đó là bảy thứ: vàng, bạc, ngọc lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não còn được gọi là thất bảo và phật pháp tăng. Các thứ cao quý ấy được xuất phát từ thế gian. Các loại ngọc và vàng bạc được có trong lòng đất với thời gian cả ngàn năm, tỷ năm do môi trường của đất tạo nên. Các thứ ngọc gọi là đá quý, còn vàng bạc gọi là kim loại quý.
14/12/2011(Xem: 9113)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
10/11/2011(Xem: 3846)
Đạo Phật không ca ngợi sự nghèo khổ, cũng như không phê phán sự giàu có. Bởi vì, giàu nghèo chỉ là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh. Cứu cánh là sự an lạc thật sự của thân tâm, chỉ có thể đạt tới được bằng đạo đức và trí tuệ...
25/10/2011(Xem: 7981)
Thái độ của Phật giáo liên quan đến sự hòa điệu phi thường này như thế nào? Phật giáo có chấp nhận ý niệm có một Đấng Sáng Tạo toàn tri hay là một nguyên lý sáng tạo có khả năng điều chỉnh sự tiến triển của vũ trụ một cách tuyệt vời? Hay Phật giáo cho rằng sự hòa điệu chính xác và tuyệt vời của vũ trụ chẳng qua chỉ là một tình cờ may mắn? Vấn đề có hay không một Đấng Sáng Tạo?
10/08/2011(Xem: 4332)
Thuyết nhân quả của nhà Phật, nói đủ là nhân-duyên và quả là một triết lý mang tính khoa học, qui luật tự nhiên của vũ trụ, không mang tính chất hình thức của sự thưởng phạt từ một đấng quyền năng nào. Hiểu vậy, trong cuộc sống, chúng ta vui vẻ đón nhận những khổ đau bất thường xảy đến với mình như một kết quả do chính mình tạo nhân từ trước. Từ đó suy nghiệm ra, lý nhân quả chi phối cả vũ trụ nhân sinh. Nếu tin sâu nhân quả, chúng ta sẽ được thăng hoa trên đời sống tâm linh, trở nên hiền thiện đạo đức. Ngược lại, nếu không tin nhân quả, cuộc sống chúng ta trở nên liều lĩnh và càn bừa, bất chấp hậu quả.
01/08/2011(Xem: 14276)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
01/07/2011(Xem: 6644)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
30/06/2011(Xem: 3952)
1.- HỎI:Thưa giáo sư, tại sao giáo Sư quyết định nghiên cứu Đạo Phật? ĐÁP:Tôi luôn luôn thích thú với Đạo Phật từ lúc rất trẻ, đặc biệt đối với truyền thống Tây Tạng. Khi tôi học hỏi nhiều hơn về điều này, tôi thấy rằng Đạo Phật đã cho tôi những trả lời tuyệt vời nhất đến những vấn đề mà tôi có về việc những cảm xúc và tâm thức hoạt động như thế nào. Giáo huấn nhà Phật đã thể hiện trọn vẹn ý nghĩa đối với tôi. 2.- HỎI:Giáo Sư quyết định nghiên cứu Đạo Phật vào lúc nào? ĐÁP:Mặc dù tôi đã đọc sách vở về Đạo Phật từ năm tôi vừa 14 tuổi, nhưng tôi đã quyết định học hỏi chính thức tại Đại Học vào năm 1962, khi tôi vừa 17 tuổi.
23/06/2011(Xem: 16839)
BỘ SÁCH PHẬT HỌC ỨNG DỤNG Hồng Quang sưu tầm và biên soạn Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2011 GIỚI THIỆU BỘ SÁCH "PHẬT HỌC ỨNG DỤNG" Nguyên Định MỤC LỤC TỔNG QUÁT Cuốn 1: Nghi lễ, Thiền và Tịnh độ Cuốn 2: Giáo lý căn bản Cuốn 3: Bước đầu học đạo Cuốn 4: Bảy tôn giáo ngoài Phật giáo Cuốn 5: Áp dụng lời Phật dạy vào cuộc sống Cuốn 6: Dưỡng sinh Cuốn 7: Khoa học và Phật giáo Cuốn 8: Những vấn đề kiếp sau Cuốn 9: Đạo Phật trong vùng ruộng lúa Cuốn 10: Nghệ thuật diễn giảng và tầm quan trọng của văn nghệ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]