Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Chiến Tranh Và Hòa Bình Theo Quan Điểm Phật Giáo

01/01/201108:43(Xem: 6979)
07. Chiến Tranh Và Hòa Bình Theo Quan Điểm Phật Giáo

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH 

THEO QUAN ÐIỂM PHẬT GIÁO?

Nhân loại đã quên rằng anh ta có một trái tim. Anh ta quên rằng nếu anh ta đối xử với thế giới một cách tử tế thì thế giới sẽ đối xử tử tế lại với anh ta.

Chúng ta đang sống trong một thế giới của những sự mâu thuẫn thực sự kinh hoàng. Một mặt, con người sợ chiến tranh; mặt khác, họ chuẩn bị cho chiến tranh với một sự điên cuồng. Họ sinh ra dư thừa, song họ phân phát khổ đau. Thế giới ngày càng trở nên đông đúc, nhưng con người ngày càng trở nên cô lập nhau và ngày càng cảm thấy cô đơn. Nhân loại đang sống gần gũi với nhau trong một đại gia đình, song mỗi cá nhân tìm cho bản thân mình ngày càng nhiều hơn so với trước đây, bị tách biệt khỏi những người láng giềng của anh ta. Sự hiểu biết và thành thật với nhau đang ngày càng thiếu đi trầm trọng. Con người không thể tin tưởng lẫn nhau cho dù người kia có tốt thế nào đi nữa.

Khi tổ chức Liên Hiệp Quốc được hình thành sau những nỗi kinh hoàng của cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai, những vị đứng đầu của tổ chức họp lại để ký kết một hiến chương đồng ý với lời mở đầu sau đây: “Bởi vì chính trong tâm của con người mà chiến tranh bắt đầu, chính trong tâm con người mà thành luỹ bảo vệ hòa bình phải được xây dựng. Chính quan điểm này được nhấn mạnh trong bài kệ đầu tiên của Bản Kinh Pháp Cú:

“Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo”. (PC-01)

Niềm tin rằng con đường duy nhất để đánh lại bạo lực là bằng cách áp dụng nhiều quyền lực hơn đã đưa đến sự xung đột vũ trang giữa các quốc gia lớn mạnh với nhau. Và sự cạnh tranh này nhằm tăng cường vũ khí trang bị cho chiến tranh đã mang lại cho nhân loại nguy cơ huỷ diệt hoàn toàn sự sống con người. Nếu chúng ta không làm gì để ngăn chặn hành động đó, thì cuộc chiến kế tiếp sẽ là sự kết thúc của thế giới nơi mà sẽ không có những kẻ chiến thắng và cũng không có nạn nhân của chiến tranh. Chỉ còn lại những xác chết ngổn ngang trên chiến trường.

“Hận thù không thể dập tắt bằng hận thù;
Hận thù có thể dập tắt bằng tình thương”.

Ðó là lời khuyên của Ðức Phật cho những ai tuyên thuyết một học thuyết về sự đối kháng, sân hận và cho những ai dẫn dắt nhân loại vào chiến tranh và phản loạn chống lại nhau. Nhiều người cho rằng lời khuyên của Ðức Phật là hãy chuyển hóa ác thành thiện là một lời khuyên không thiết thực. Trên thực tế, đó là một phương pháp đúng đắn duy nhất để giải quyết vấn đề. Phương pháp này được một bậc đạo sư vĩ đại giới thiệu thông qua sự chứng nghiệm bản thân của Ngài. Bởi vì chúng ta kêu căng, tự hào và ngã mạn, chúng ta miễn cưỡng để chuyển hoá ác thành thiện, nghĩ rằng quần chúng có thể đối xử chúng ta hèn nhát như mọi người. Thậm chí có một số người nghĩ rằng sự tử tế, từ tâm và lịch thiệp là mang tính đàn bà chứ không mang tính đàn ông! Nhưng tác hại sẽ như thế nào nếu chúng ta giải quyết những vấn đề của chúng ta và mang lại niềm hạnh phúc và an lạc cho mọi người bằng cách chấp nhận phương pháp đầy tính văn hóa này và bằng cách hy sinh sự kiêu căng ngã mạn đầy sự hiểm nguy của chúng ta?

Tinh thần khoan dung độ lượng phải được thực hành nếu hoà bình phải đến với nhân loại trên trái đất này. Quyền lực và sự ép buộc sẽ chỉ tạo ra thái độ không khoan dung. Ðể thiết lập hoà bình và hài hoà giữa nhân loại, mỗi một người trước tiên phải học tập phương pháp thực hành nhằm đưa đến sự chấm dứt của tham lam, sân hận và si mê, nguồn gốc của tất cả các quyền lực đầy tội lỗi. Nếu nhân loại có thể diệt tận tất cả những thế lực xấu xa này thì khoan dung và hoà bình sẽ xuất hiện nơi thế giới bất an này.

Ngày nay, chúng ta là những người đi theo con đường của Ðức Phật từ bi nhất, cho nên chúng ta phải có một nhiệm vụ đặc biệt là hãy cùng nhau hoạt động nhằm thiết lập nền hoà bình cho thế giới và chỉ cho những người khác một tấm gương để noi theo bằng cách noi theo lời khuyên của bậc đạo sư:

Mọi người sợ hình phạt;
Mọi người sợ tử vong; 
Lấy mình làm ví dụ; 
Không giết không bảo giết”. 
(Pháp Cú –129)

Hoà bình có thể luôn luôn đạt được, nhưng phương pháp để đạt được hoà bình không chỉ bằng cách cầu nguyện và lễ nghi. Hoà bình là kết quả của sự hài hoà giữa con người với chúng sanh đồng loại và môi trường sống xung quanh. Nền hoà bình mà chúng ta cố đưa ra giới thiệu bằng bạo lực thì không phải là một nền hoà bình vĩnh viễn lâu dài. Ðó là một khoảng trung gian giữa những cuộc xung đột của tham ái ích kỷ và những điều kiện thế gian.

Hoà bình không thể tồn tại trên thế giới này mà không có việc thực hành hạnh khoan dung. Ðể khoan dung, độ lượng, chúng ta không nên cho phép trạng thái tâm sân hận và ganh tỵ ngự trị trong tâm chúng ta. Ðức Phật dạy: “Kẻ thù hại kẻ thù; oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân”. PC-42)
Phật giáo là một tôn giáo khoan dung bởi vì Phật giáo tuyên thuyết một cuộc sống tự kiềm chế. Phật giáo dạy một cuộc sống được căn cứ vào không chỉ những giới luật mà còn căn cứ vào những nguyên lý. Phật giáo không bao giờ hành quyết hay ngược đãi đối với những ai mang trong mình một tín ngưỡng khác biệt. Giáo lý như thế không cần thiết đối với bất kỳ một ai phải gán cho chính anh ta một nhãn hiệu ‘Phật tử’ để thực hành những nguyên lý cao thượng của tôn giáo này.

Thế gian như một tấm gương và nếu chúng ta nhìn vào tấm gương với một gương mặt mỉm cười, thì chúng ta có thể nhìn thấy chân diện mục của chính mình, một gương mặt tươi cười tuyệt mỹ. Trái lại, nếu chúng ta nhìn vào tấm gương với một gương mặt dài thòng thì nhất định chúng ta sẽ nhìn thấy sự xấu xa của gương mặt. Tương tự như vậy, nếu chúng ta đối xử với thế giới tử tế, nhã nhặn thì thế giới chắc chắn sẽ đối xử lại chúng ta một cách tử tế. Hãy học hạnh an lạc, hoà bình nơi chính bản thân mình và thế giới cũng sẽ hoà bình với chúng ta.

Tâm con người được ban bố cho quá nhiều sự giả dối về bản ngã đến mức độ anh ta không muốn chấp nhận những yếu điểm của mình. Anh ta sẽ cố tìm ra một lý do nào đó nhằm thoả mãn hành động của anh ta và tạo ra một sự vô minh mà anh ta không nhìn thấy. Nếu một con người thực sự muốn được tự do giải thoát, thì anh ta phải can đảm chấp nhận những yếu điểm của mình. Ðức Phật dạy: “Lỗi người khác thì dễ nhìn thấy còn lỗi của chính mình thì thực sự khó nhìn thấy”. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/03/2018(Xem: 7913)
Có những vần thơ gắn liền với mỗi người từ thuở biết viết, biết đọc cho đến lúc trưởng thành, đi theo suốt cuộc đời, và cũng có thể…cho đến hơi thở cuối cùng. Những vần thơ hay những câu thơ của những thi sĩ nổi danh mà mình đã thuộc nằm lòng, đã ghi nhớ tận đáy sâu của ký ức, và bỗng một lúc nào đó, ở một tình huống nào đó, một nhân duyên nào đó, tự chúng hiện ra một cách tự nhiên trong dòng tư tưởng, sự nghĩ suy, và bộc ra thành lời nói như là của chính mình và đôi lúc, chỉ nhớ đến vần thơ, câu thơ đó mà cũng không hề nhớ đến tác giả là ai nữa ! Các vần thơ, các câu thơ ấy thực sự đã gắn liền với mình, với đời sống mình, đôi lúc còn được xem như là kim chỉ Nam để giúp mình phản ứng, cư xử trước mọi hoàn cảnh, vui hay buồn, tốt hay xấu đang xảy ra.
27/02/2018(Xem: 5827)
Cái tự tánh của tâm viên luôn luôn thay đổi vô thường rất khó mà chuyên tâm nhất trí, chú tâm lâu dài. Kinh Pháp Cú mở đầu, “Tâm làm chủ, tâm tạo!” Hiểu theo nghĩa thông thường chấp ngã của phàm phu là tâm ta làm chủ mọi hành động của ta, tạo ra mọi tư duy và dẫn đến hành động của ta. Tâm phan duyên dẫn ta đi vòng vòng từ suy nghĩ này qua tư tưởng khác thay vì ta dễ dàng nắm bắt, hàng phục được cái tâm bất trị đó. Nhưng bồ tát không thấy tâm chủ, tâm tớ, tâm ta. Không có hành động và tư duy của người, không có suy tư và hành động của ta. Tôi nghĩ, ngay cả giữa Có và Không cũng không có sở trụ để chấp. Chẳng hạn, nhân sinh thường chấp ngã, lưu luyến sống trong quá khứ và lo lắng cho tương lai của chính mình. Chúng ta thường được giảng dạy là phải sống với hiện tại, ngay trong giờ phút này, nhưng ngay cả cái hiện tại chính giữa này cũng vô định xứ, thay đổi
03/02/2018(Xem: 14410)
Tương quan là có quan hệ qua lại với nhau, tương cận là mối tương quan gần gủi nhất. Vấn đề này, mang tính tương tác mà trong Phật giáo gọi là: “cái này có thì cái kia có, cái này sinh thi cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt…”
22/01/2018(Xem: 7883)
Tôi nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng lần đầu tiên vào năm 1972. Chỉ ba ngày sau khi tôi đến Dharamsala ở miền bắc Ấn, ngài đã bắt đầu khóa thuyết giảng 16 ngày, bốn đến sáu tiếng mỗi ngày về những giai đoạn của con đường Giác Ngộ. Tôi đã bắt đầu học Tạng ngữ và thực tập Phật giáo Tây Tạng vào năm 1962, và những vị thầy của tôi, đặc biệt chỉ bảo về những sự phức tạp của các luận điển Tây Tạng, đã chuẩn bị cho tôi việc học hỏi với những học giả du già Tây Tạng tị nạn ở Ấn Độ. Nhưng thật tình mà nói, tôi không nghĩ rằng một vị tái sanh được chỉ định nắm quyền sinh ra ở đông bắc Tây Tạng năm 1935 và được nhìn nhận qua những sự tiên đoán, các giấc mộng, những biến cố cực kỳ phi thường, và các thử nghiệm như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 vào lúc 2 tuổi – có thể đảm đương nhiệm vụ quan trọng như vậy.
22/01/2018(Xem: 6756)
Chúng ta biết rằng nhà khoa học Albert Einstein có những quan điểm rất gần với nhà Phật. Nhưng rồi cũng sẽ bất ngờ, khi thấy có lúc Einstein nói y hệt, gần như 100% y hệt như giáo lý nhà Phật. Đặc biệt là khi Einstein viết thư chia buồn một người bạn thân năm 1950... Thí dụ, các pháp là Không. Thí dụ, vạn pháp là thức. Einstein đều nói lên cả hai quan điểm này. Trong Kinh Tiểu Không MN 121, và Kinh Đại Không MN 122, Đức Phật hướng dẫn cách chú tâm từ một nội dung có nhiều dẫn tới nội dung có ít, và từ có ít sẽ bước vào Không để an trú.
12/01/2018(Xem: 5846)
Vấn đề chủ yếu trong tác phẩm Trung Quán Luận của Long Thọ là tánh không. Ý nghĩa cốt lõi của tánh không như chúng ta đã biết là tánh không trong điều kiện duyên khởi.Trong các kệ tụng vi diệu, Long Thọ tỏ lòng kính trọng đức Phật như một vị thánh diễn giải các pháp thoại về duyên khởi với năng lực siêu nhiên. Vì vậy, Long Thọ ca ngợi đức Phật là một vị đạo sư vô song. Theo đạo Phật, nền tảng giáo lý duyên khởi là điều rất quan trọng.
06/01/2018(Xem: 13660)
Vài suy nghĩ về việc học chữ Phạn trong các Học Viện Phật Giáo Việt Nam_ Lê Tự Hỷ
05/01/2018(Xem: 10488)
Sau bài giới thiệu “Đọc Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế của Thích Tín Nghĩa” phổ biến tới bạn đọc ngày 7/12/2017, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa lại gửi biếu tôi thêm hai cuốn sách : - Trúc Lâm Thiền Phái Thi Tập tái bản lần thứ nhất 2013. - Đạt Ma và Huyền Trang tái bản lần thứ ba 1998.
02/01/2018(Xem: 6679)
Phái đoàn chúng tôi đại diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu về đến đây, tức là chùa Châu Lâm, thôn Quảng Đức, xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên để thăm viếng bà con và chia sẻ một số tịnh tài, phẩm vật đến với bà con khốn khó trong cơn bão lũ vừa qua tại tỉnh nhà chúng ta. Thưa quý vị! Phú Yên là quê hương yên bình, được che chở bởi trời đất, bởi hồn thiêng sông núi, bởi lịch đại Tổ sư Phật giáo. Quê hương của chúng ta có biển, có núi, có đầm, có sông và có bình nguyên, cho nên cũng từ đó, mà quê hương chúng ta đã phát sinh ra nhiều bậc anh tài cho đất nước, nhiều bậc cao Tăng cho Đạo Pháp một thời.
18/12/2017(Xem: 8768)
Thuyết Nhân Duyên_Tuệ Thiền Nguyễn Tối Thiện-2017, Để diễn tả sự liên hệ giữa hai sự vật trong vũ trụ, triết học Trung hoa đưa ra nguyên lý Ngũ Hành bao gồm 5 yếu tố tượng trưng cho năm cơ quan tạng phủ hay năm năng lực khí hóa : Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Nguyên lý Ngũ Hành có thể được phát biểu như sau : « phàm cái gì hiện hữu đều có cái sinh ra nó, cái khắc nó, cái nó sinh ra và cái nó khắc, tạo thành một toàn thể 5 yếu tố liên hệ chặc chẻ. » Nguyên lý này áp dụng cho các phần tử (éléments) vật chất hoặc các năng lực khí hóa nhưng nó bị giới hạn trong một đơn vị thời gian nào đó tùy theo sự vận hành của yếu tố vật chất nầy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567