Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tính cách đa dạng của tôn giáo

24/12/201009:44(Xem: 10054)
Tính cách đa dạng của tôn giáo

ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA
CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾNHẠNH PHÚC
Bản gốc tiếng Anh: The compassion life - NXB: WisdomPublications, Boston, 2001.
Bản tiếng Pháp: Les voies spirituelles du Bonheur - NXB: Pressesdu Châtelet, Paris, 2002
Hoang Phong Việtdịch

4
Tínhcách đa dạng củatôn giáo

Khi chưa nhìn thấy giátrị của những truyền thống tôn giáo khác, thật khó cho ta kính trọng cáctôngiáo ấy. Tuy nhiên, sự kính trọng lẫn nhau phải căn cứ trên sự hài hoà chânthật. Chúng ta cần phải hướng đến một tình thần hài hoà, không phải vì lý dochính trị hoặc kinh tế, nhưng chỉ vì giá trị của các truyền thống khác. Riêngphần tôi, tôi luôn luôn cố gắng đề cao sự hài hoà giữa các tôn giáo.

Dựa vào đức tin của mìnhđể nâng cao các giá trị căn bản của con người là một tiến trình tích cực. Cáctôn giáo chính trên thế giới đều nêu cao giá trị của tình thương, lòng từ bi vàsự tha thứ. Nhất định là mỗi tôn giáo thực hành theo cách thức của mình,nhưngtất cả đều nhắm vào những mục đích ít nhiều giống nhau – sống hạnh phúc hơn,trở nên từ bi hơn và xây dựng một thế giới với nhiều tình thương hơn –, sự đadạng về phương pháp của các tôn giáo không quan trọng lắm. Tầm quan trọng lớnhơn là phải phát huy tình thương, lòng từ bi và sự tha thứ ; các tôn giáo chínhđều hàm chứa một tiềm năng như nhau. Một số người có xu hướng tin vào tôn giáo,và khi đã nhìn thấy sự đa dạng về năng khiếu trong các xu hướng của con người,thì ta phải hiểu rằng sự kiện có nhiều tôn giáo khác nhau là một điều hữu lý.Sự thực bao giờ cũng ích lợi.

Đến đây tôi xin đề cậpđến vấn đề hài hoà tôn giáo bằng cách phân biệt thành hai cấp bậc tâm linh khácnhau.

Cấp bậc tâm linh thứnhất :
đức tin và sự rộnglượng

Đối với các tôn giáochính cũng như đối với tất cả mọi người, cấp bậc tu tập thứ nhất chính là đứctin. Tôi tin rằng tất cả các tôn giáo đều đóng một vai trò quan trọng, nhưngnếu muốn cho các tôn giáo có thể góp phần một cách hữu hiệu vào lợi ích chungcủa nhân loại, cần phải có hai yếu tố.

Yếu tố thứ nhất là mỗicá nhân – tức là chúng ta đây – khi đã theo một tôn giáo nào thì nên thực thimột cách chân thật. Những lời giáo huấn có tính cách tôn giáo phải trở thànhnhững gì gắn liền với đời sống của ta và lưu lại trong ta. Đôi khi ta bước vàomột nhà thờ hay một ngôi chùa để cầu nguyện hay tĩnh tâm, nhưng lúc vừa đặtchân ra khỏi các nơi ấy thì những giây phút nhiệt tình hướng về tôn giáochẳngcòn lưu lại gì cả. Như thế không phải là cách tu tập đứng đắn. Những gì mà tôngiáo ủy thác phải được giữ lại trong ta, dù cho ta đang ở bất cứ nơi nào. Tấtcả những lời giáo huấn của tôn giáo phải luôn luôn hiện hữu trong sự sống, mỗikhi ta cần đến những cảm ứng thiêng liêng hay một sức mạnh đạo đức, ta sẽ cóngay. Khi những cảm ứng và sức mạnh đó đã hiện hữu thường xuyên trong ta, thikhi ấy ta mới có thể sử dụng chúng để đối đầu với những khó khăn vụt đến.

Tôn giáo chỉ thật sự hữuích khi đã hội nhập vào đời sống của ta. Cần phải biết tôn giáo đã dạy ta nhữnggì và hãy áp dụng ngay những điều học hỏi được vào những cảm nhận của ta. Đôikhi các ý niệm về tôn giáo chỉ được hiểu một cách thật lờ mờ trên phươngdiệnlý trí. Nếu thiếu sự cảm nhận, sức hữu hiệu của tôn giáo sẽ rất giới hạn. Vì thếphải tu tập chân thành để giúp sự sống của ta thấm nhuần với tôn giáo.

Yếu tố thứ hai liên quannhiều hơn với sự tương quan giữa các tôn giáo. Ngày nay, nhờ vào tiến bôkỹthuật và hệ thống kinh tế toàn cầu, chúng ta lại càng lệ thuộc với nhau nhiềuhơn nữa. Những quốc gia cách biệt nhau, những lục địa xa xôi đều liên hệmậtthiết với nhau trong bối cảnh hiện tại. Sự liên hệ đó chặt chẽ đến đỗi sự tồnvong của một vùng nào đó trên địa cầu cũng đều liên hệ đến sự tồn vong củanhững nơi khác. Sự tương liên trên thế giới trở nên chặt chẽ hơn, vì thếsựtương tác giữa con người cũng mang tầm vóc rộng lớn hơn. Những biến chuyển trênđây chứng minh cho thấy thái độ chấp nhận sự đa dạng trong tôn giáo mangmộttầm quan trọng vô biên. Trước đây, khi các tập thể con người sinh sống cáchbiệt nhau và các tôn giáo cũng tương đối bị cô lập, thì ý niệm chỉ cần một tôngiáo duy nhất còn có thể chấp nhận được, kể cả rất hữu ích nữa. Nhưng ngày nay,hoàn cảnh đã khác và tình thế đổi thay. Thật hết sức cần thiết phải chấpnhậnsự đa dạng trong tôn giáo và chủ trương sự kính trọng lẫn nhau một cách thànhthực, một sự tiếp xúc chặt chẽ giữa các tôn giáo là một điều bắt buộc. Trên đâylà yếu tố thứ hai giúp cho mọi tôn giáo khác nhau trên thế giới trở nên hữuhiệu hơn trong các công tác chung về nhân đạo.

Khi tôi còn sinh sốngtrên Tây tạng, ngoài Phật giáo ra tôi không có một dịp nào để tiếp xúc với cáctín đồ của các truyển thống khác, thái độ lúc đó của tôi đối các tôn giáo kháckhông được tích cực lắm. Nhưng sau này khi tôi có dịp gặp những người thuộc cáctín ngưỡng khác nhau, và nhân dịp đó để đào sâu những kinh nghiệm cá nhân, thìthái độ của tôi đối với các tôn giáo khác đã đổi thay. Tôi hiểu rằng cáctôngiáo ấy hết sức cần thiết cho nhân loại và mỗi tôn giáo đều có tiềm năngđưađến một thế giới tốt đẹp hơn. Suốt trong những thế kỷ vừa qua, các tôn giáokhác nhau đã góp phần tích cực để cải thiện con người, và kể cả ngày hômnay,nhiều người tu tập đã đạt được sự thăng tiến nhờ vào các tôn giáo như Thiênchúa giáo, Hồi giáo, Do thái giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo hoặc các truyềnthốngkhác nữa.

Đối thoại với nhữngngười tu tập tthuộc những tôn giáo khác thật hết sức phong phú. Hãy lấy một thídụ, các dịp dàm thoại giữa tôi với ông Thomas Merton, ngày nay đã qua đời, đã giúptôi nhận ra ông là một con người tuyệt vời, và cũng giúp tôi hé thấy tiềm năngtinh thần hàm chứa trong đức tin Thiên chúa giáo. Vào một dịp khác, tôi làmquen với một nhà tu Thiên chúa giáo trong một tu viện nổi tiếng ở Montserra,thuộc Tây ban nha. Ông này đã sống ẩn dật nhiều năm trên một ngọn đồi phía sautu viện. Khi tôi đến viếng vùng này, ông đã bỏ nơi ẩn cư để xuống gặp tôi,tiếng Anh của ông ta còn tệ hơn cả tiếng Anh của tôi, nhưng điều đó đã giúp tôicó thêm can đảm để đàm thoại với ông ! Chúng tôi ngồi đối mặt với nhau và tôicất lời hỏi ông ta như sau : « Trong suốt những năm qua, ông đã làm gì trênđỉnh đồi thế ? ». Ông ta nhìn tôi một lúc rồi trả lời như sau : « Tôi thiềnđịnh về lòng từ bi và tình yêu thương ». Lúc ông ta cất lời để nói lên cáctiếng ấy, tôi đã nhận thấy thông điệp trong mắt ông. Và tôi cảm nhận được mộtniềm kính trọng sâu xa nơi con người của ông và cả những người khác giống vơíông. Đấy là những loại kinh nghiệm đã làm cho tôi tin rằng tất cả những tôngiáo trên thế giới, dù cho khác biệt trên lảnh vực triết học và tín điều, đềucó khả năng tạo ra những con người tốt. Mỗi tôn giáo đều quảng bá một thôngđiệp tuyệt vời.

Những lời giáo huấn xâydựng trên đức tin về một vị Trời sáng tạo nêu lên một hướng đi rất mạnh.Nhữngngười Thiên chúa giáo không tin vào sự tái sinh, cũng không tin vào các kiếpsống trước và các kiếp sống tương lai, nhưng sự vững tin là kiếp sống này doTrời tạo ra, đã giúp cho họ những xúc cảm gần gũi với đấng sáng tạo mà họ trựcthuộc. Họ tiếp nhận những lời giáo huấn khuyên họ phải thương yêu các ngườiđồng loại. Thật ra, nếu ta yêu quý Trời, ta phải yêu thương tất cả mọi người,bởi vì họ cũng như ta, tất cả đều là sự sáng tạo của Trời. Nếu như số phậntương lai của kẻ khác, cũng như của chính ta, đều nằm trong tay của Trời, thìđương nhiên chúng ta đều chịu chung một cảnh huống. Ngược lại, những ai đòi hỏikẻ khác phải yêu mến Trời, nhưng chính mình thì lại không tỏ ra một dấu hiệunào chứng tỏ tình yêu thương của mình đối với anh em và chị em cùng mangchungmột đức tin, thì những kẻ đó thật đáng nghi ngờ. Bất cứ một người nào tin vàomột vị Trời và vào tình thương của Ngài thì phải chứng tỏ một cách thànhthậttình cảm của mình hướng về Trời bằng cách yêu thương người đồng loại. Cách suydiễn như thế tạo ra một sự tiếp cận mạnh mẽ, có phải thế hay chăng ?

Vì thế, khi ta quán xétmột tôn giáo dưới nhiều khía cạnh khác nhau, như cách ta vừa làm – khôngphảibằng chính quan điểm triết học của ta, nhưng phải dựa trên nhiều cấp bậckhácnhau –, thì nhất định tất cả các tôn giáo chính đều mang tiềm năng giúp cho conngười trở nên hoàn hảo hơn. Khi giao du với các tín đồ của các tôn giáo khác,ta sẽ biết mở rộng tâm thức và đưa đến một sự tương kính đối với các truyềnthống khác. Tôi đã học hỏi được nhiều sáng kiến mới lạ liên quan đến cácphươngpháp tu tập khi tiếp xúc với các tôn giáo khác và đem ghép thêm vào cáchtu tậpcủa riêng tôi. Đồng thời, các anh em chị em Thiên chúa giáo cũng nên chọn và sửdụng một số kỹ thuật của Phật giáo – chẳng hạn như sự chú tâm vào một điểm vàcác phương pháp giúp phát huy sự rộng lượng, lòng từ bi và tình yêu thương.Những cuộc gặp gỡ và đối thoại như thế thật hữu ích, vì đã tích cực góp phầnlàm gia tăng thêm sự hài hoà giữa các tôn giáo.

Các nhà chính trị và cácnguyên thủ Quốc gia thường nói đến sự tương trợ và đoàn kết. Tại sao chúng talà những người thuộc phía tôn giáo lại lại không thể nêu lên điều đó ? Tôi nghĩrằng đã đến lúc phải làm việc ấy. Vào năm 1997, tại Abisse thuộc nước Ý,cácngười đại diện các tôn giáo khác nhau trên thế giới tập họp lại để cùng nhaucầu nguyện, tuy rằng tôi không tin chắc rằng chữ « cầu nguyện » là một chữthích nghi để mô tả một cách chính xác cách tu tập của tất cả các tôn giáo.Nhưng cũng chẳng sao, điều thiết yếu là những thành phần tôn giáo thuộc cáctruyền thống khác nhau đã tụ hội lại cùng một địa điểm để cầu nguyện, theo sựtin tưởng riêng của mỗi truyền thống. Theo tôi biến cố đó mang một tính cáchrất tích cực. Cần phải tiếp tục trên đường hướng ấy và gia tăng nhiều hơn nữa nhữngcố gắng đem đến hài hoà và giúp các tôn giáo trên toàn thế giới xích lạigầnnhau hơn. Nếu không, có thể chúng ta sẽ còn phải đối đầu với thật nhiều khókhăn có thể chia rẽ cả nhân loại.

Nếu như tôn giáo là mộtliều thuốc duy nhất có thể làm suy giảm những xung đột giữa con người, thì quảthật là một thảm họa nếu liều thuốc ấy lại hoá thành nguồn gốc đưa đến xung độtvới nhau. Kể cả ngày nay cũng như từ ngàn xưa, những bất hoà nhân danh tôn giáovẫn thường bùng nổ, tôi thấy điều ấy hết sức là đáng buồn. Khi suy tư một cáchcởi mở hơn và sâu xa hơn, ta sẽ nhận thấy tình thế trong quá khứ khác hẳn vớingày nay. Trong tình thế hiện tại, thay vì bị cô lập, chúng ta trở nên liên đớivới nhau nhiều hơn. Vì thế thật cần thiết phải tạo lập sự tương quan chặt chẽgiữa các tôn giáo, giúp cho các đoàn thể có thể hợp tác bên cạnh nhau trong nổlực chung hướng về sự an lành của nhân loại.

Cấp bậc tâm linh thứhai :
từ bi là một tôn giáotoàn cầu

Cấp bậc tâm linh thứhai, vượt lên trên mọi dị biệt về tôn giáo, đó là lòng từ bi và tình thương yêugiữa con người. Cấp bậc này quan trọng hơn nhiều so với cấp bậc thứ nhất, vì dùrằng tôn giáo có tốt đẹp đến đâu, thì cũng chỉ có một số ít người theo. Hầu hếttrong số năm đến sáu tỷ người trên hành tinh này, hình như không có mấy ai tu tậphoặc theo bất cứ một tôn giáo nào cả. Tùy theo truyền thống gia đình, họtựnhận diện như thuộc vào nhóm này hay nhóm khác – « tôi là người thuộc Ấnđộgiáo », « tôi là người Phật giáo », « tôi là người Thiên chúa giáo » –, nhưngthật ra trong chính lương tâm họ, họ không phải là những người tu tập. Cũngchẳng sao ! Một người nào đó gia nhập hay không gia nhập vào một tôn giáo làhoàn toàn thuộc quyền cá nhân của họ. Tất cả các vị thầy lớn trong thời cổ xưa,chẳng hạn như Đức Phật, Mahavira, Jésus, Mahomet, không có vị nào thành côngtrong việc khai tâm cho hết tất cả mọi người. Chưa hề có ai làm được việc ấy.Sự kiện gán cho những người không tin là vô thần cũng chẳng hề hấn gì. Một sốcác học giả Tây phương xem những người Phật giáo là vô thần, vì lý do họkhôngtin vào một vị sáng tạo. Cách hiểu như thế đôi khi bắt buộc tôi phải chọn nhữngchữ khác chẳng hạn như chữ « cực đoan » để chỉ định những người không tin gìcả. Tôi gọi họ là những người « không tin cực đoan », bởi vì chẳng nhữnghọkhông tin vào một tôn giáo nào hết mà đồng thời họ lại tin chắc chắn mộtcáchquả quyết là bất cứ một hình thức tâm linh nào cũng đều vô ích. Chúng taphảitự nhắc nhở để nhớ rằng những kẻ đó cũng đều là những thành phần của nhân loại,và cũng như tất cả kẻ khác, họ cũng muốn được hạnh phúc và sống một cuộcsốngthanh thản và êm đềm. Chính đó mới là điều quan trọng.

Theo ý tôi, chẳng có gìlà xấu nếu muốn làm một kẻ không tin, nhưng một khi đã là thành phần củagiốngngười, thì họ đều có nhu cầu về thương yêu và lòng từ bi như nhau. Đấy là nhữnggì thiết yếu nhất trong những lời giảng huấn của các truyền thống tôn giáo. Nếukhông có từ bi thì ngay cả những người tin vào tôn giáo cũng có thể trở thànhnhững người gây ra tai hại. Hơn nữa, dù ta tin hay không tin, thì sự tu tập cănbản vẫn thuộc vào lãnh vực của tim ta. Theo tôi, từ bi và tình thương yêu làtôn giáo toàn cầu. Tất cả mọi người đều cần đến những thứ ấy vì chúng mang lạicho ta sức mạnh nội tâm, niềm hy vọng và sự an bình trong tâm thức. Từ bi vàtình thương yêu quả thật cần thiết cho tất cả mọi người.

Như tôi đã nói đến trênđây, một vài anh em và chị em người Thiên chúa giáo, kể cả những người tu hànhhay thế tục, đã nói với tôi là họ từng sử dụng các phương pháp Phật giáođểphát huy lòng từ bi cũng như đức tin Thiên chúa giáo của chính họ. Tôi vẫnthường nhắc nhở các bạn hữu Tây phương rằng tốt hơn hết cứ giữ lấy tôn giáotruyền thống của mình. Thay đổi tôn giáo không phải dễ và đôi khi lại cóthểgặp những chuyện rối rắm.

Nhưng đối với những ai thấyrằng con đường Phật giáo hữu hiệu và phù hợp hơn với cách suy nghĩ của mình thìkhi đó mới nên đắn đo một cách nghiêm chỉnh về việc này. Và một khi đã hoàntoàn tin chắc là Phật giáo phù hợp với mình, thì lúc đó cứ đến với Phậtgiáo, một cách hoàn toàn tự do không có sự ép buộc nào. Nhưng dù sao, sau đâylà những gì không được phép quên : đôi khi vì muốn biện minh cho sự cải đạo củamình khi chọn một đức tin mới, một vài người có thái độ chỉ trích tôn giáo haytruyền thống trước đây của họ. Tôn giáo cũ trước đây dù không còn phù hợp vớilòng tin của họ nữa, nhưng vẫn hữu ích cho nhân loại. Biết công nhận quan điểmvà quyền hạn của kẻ khác cũng như những giá trị trong truyền thống của kẻ khác,có nghĩa là quý vị phải tiếp tục tôn vinh tôn giáo trước đây của quý vị.Điềunày thật hết sức quan trọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2022(Xem: 2154)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18623)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14216)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12507)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6682)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8808)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7826)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
07/12/2021(Xem: 4412)
Triết học Phật giáo và Cơ học Lượng tử luôn có sự hỗ tương cho nhau. * Sự kỳ lạ của Cơ học Lượng tử đến mức thách thức các nhà khoa học và triết học tìm hiểu một số nhận thức sâu sắc hơn về bản chất của thực tế. * Một nỗ lực để tìm cách diễn giải Copenhagen, và một số người tin rằng cách lý giải này dựa vào Thế giới quan Phật giáo. * Mặc dù tôi là một Phật tử nhưng tôi phản bác quan điểm vật lý học chứng minh Thế giới quan Phật giáo.
17/11/2021(Xem: 20314)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16729)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567