Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Luận Câu Xá

11/11/201017:55(Xem: 12906)
Luận Câu Xá


LUẬNCÂU XÁ

A.TÁC GIẢ VÀ THỜI GIAN TẠO LUẬN

Tácgiả luận này là Luận sư Bà-tấu-bàn-đậu (Vasubandhu - cựudịch là Thiên Thân, tân dịch là Thế Thân), người Bắc AánÐộ, sanh trong khoảng 900 năm sau Phật nhập diệt, tại đôthành Bố-lâu-sa-bố-sa (Purusapura), nước Kiền-đà-la (Gandhara),họ Kiều-thi-la, chủng tộc Bà-la-môn, Ngài có ba anh em đềuxuất gia theo bộ phái Tát-bà-đa (Sarvàstivada: Nhất thế hữubộ, gọi tắc là Hữu bộ, một trong hai mươi bộ phái Tiểuthừa), nhưng anh ngài là Vô Trước (Asanga) sớm tỏ ngộ khônglý (Sunyata) của Tiểu thừa, không còn bị bế tắc ở nơiđó, nên thông suốt thật tướng, quay về nghiên cứu và hoằngdương giáo lý Ðại Thừa. Em ngài là Tỷ-lân-trì-đạt-đathì chỉ theo giáo nghĩa Tiểu thừa mà thôi. Riêng ngài làbậc thông tuệ tuyệt vời, khi còn theo Tiểu thừa đã viết500 bộ luận để xiễn dương giáo nghĩa này. Về sau, đượcsự khuyến dẫn của anh là Vô Trước, ngài trở về Ðạithừa và cũng viết 500 bộ luận để hoằng dương giáo nghĩanày. Vì thế, đương thời tôn ngài là Thiên Bộ Luận Sư.Câu-xá Luận là một trong 500 bộ luận Tiểu thừa do ngàitrước tác. Ðến năm 80 tuổi ngài viết bộ luận cuối cùnglà "Duy Thức Tam Thập Tụng". Như vậy, có thể ước định,ngài viết luận Câu-xá vào khoảng từ 40-50 tuổi, tức khingài đang theo Tiểu thừa.

TheoTây Vức Ký 2, cách thành Bố-lâu-sa-bố-la, khoảng tám, chíndặm về phía đông, có một cây tất-bát-la, phía nam cây nàycó một ngôi tháp cao do vua A-nị-sắc-ca (Kaniska, 120TL) dựnglên khoảng năm trăm năm sau Phật Niết-bàn, phía tây ngôitháp có một ngôi chùa cao rộng, với nhiều tầng, tên làQuỳnh Lâm, cũng do vua Ca-nị-sắc-ca lập. Tầng thứ ba làmột Tăng phòng, nơi mà trước kia ngài Hiếp Tôn Giả ở,phía đông Tăng phòng có một gian nhà, chính nơi đây ngàiThế Thân viết bộ luận Câu-xá này.

B.Ý HƯỚNG TẠO LUẬN

Khitách khỏi Thượng tọa bộ, Hữu bộ có kiến giải riêngvề Phật pháp. Theo Hữu bộ mục đích của toàn bộ Phậtpháp ở chỗ chỉ ra sự khổ của thế giới hiện hữu vàphương cách thoát ly sự khổ đó để đạt Niết-bàn an ổnvĩnh cửu. Nói đầy đủ hơn là chỉ rõ sự khổ mà ngườicầu giải thoát cần phải biết, nguyên nhân sự khổ mà ngườicầu giải thoát cần phải diệt trừ, phương cách diệt khổcần phải tu và cảnh giới Niết-bàn an vui cần phải chứng.Ðó là bốn Thánh đế bao gồm tất cả mọi sự vật thếgian và xuất thế gian. Mọi sự vật này lại có thể chiara năm vị là sắc, tâm, tâm sở, tâm bất tương ưng và vôvi. Sắc tức năm căn, năm trần và vô biểu sắc. Tâm tứctinh thần, khả năng nhận thức, tức tâm vương. Tâm sở làcông dụng tinh thần đặc thù như cảm giác, tri giác, tưởngtượng v.v... Công dụng đặc thù này không phải là công dụngcủa tâm vương nhưng nó có tự thể riêng hợp cùng với tâmvương thành có cảm giác tri giác, như thọ tâm sở hợp vớitâm vương thành có sự cảm thọ vui khổ. Tâm bất tươngưng hành, hành là tạo tác, những pháp có công dụng tạotác gọi là hành như sanh, trụ, dị, diệt v.v... nó từ tâmvà sắc mà có được, chứ không phải như tâm sở tươngưng với tâm vương, nên gọi tâm bất tương ưng hành. Vôvi pháp tức ba thứ trạch diệt, phi trạch diệt và hư khôngvô vi. Năm vị pháp này theo chỗ tiện nghi chia làm năm uẩnvà vô vi, hoặc chia làm mười hai xứ, hoặc chia làm mườitám giới. Năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới hợp lạigọi là ba khoa, thể nó thường hằng bất diệt, chỉ khi tácdụng nó chưa khởi gọi là pháp vị lai, khi đã khởi rồigọi là quá khứ, khi đang khởi gọi hiện tại. Ðây là chủtrương "ba đời thật có", "pháp thể hằng có" của tông pháiHữu bộ. Pháp thể tuy hằng có, nhưng tác dụng của nó sanhkhởi được phải nhờ đến sự hòa hợp của các cái khácvà sự quan hệ trước sau, tức là nhờ nhân duyên, chứ khôngthể đơn độc khởi lên tác dụng. Tự thể mỗi pháp riêngcòn không thể khởi lên tác dụng huống là có một chủ tểthường nhất để gọi đó là ngã được sao? Do đó tôngnày còn được gọi là "Pháp hữu ngã vô tông".

Hỏi:Nếu không có ngã thể chủ tể thường nhất thì cái gì dẫnđến sự khổ của thế giới hiện thực này?

Ðáp:Dẫn đến sự khổ của thế giới hiện thực không ngoàinghiệp nhân và phiền não duyên, nếu dứt hết nghiệp nhânvà phiền não duyên thì quả báo sự khổ tự dứt, đồngthời chứng đắc diệu thể Niết-bàn. Phương pháp dứt nghiệpphiền não này nói lược là Thánh đạo tám chi, nói rộnglà bảy khoa ba mươi bảy giác phần. Tóm lại, tông phái Hữubộ rất chú trọng lý tánh, chú trọng dùng tuệ giản trạchcác pháp để dứt mê hoặc chứng chân lý. Cho nên trên bướcđường tu đạo không ngoài vận dụng tuệ thế tục (hưũlậu tuệ) và tuệ thắng nghĩa (vô lậu tuệ) tuần tự tiếntheo ba đạo là kiến đạo, tu đạo, vô học đạo. Kiến đạolà dựa vào tuệ trạch pháp thấy biết một cách xác thậtvề lý Tứ đế, dứt được kiến hoặc cũng gọi mê lý hoặc.Tu đạo là tiến lên dùng sức tuệ trạch pháp tiếp tụcquán sát lý Tứ đế, để dứt trừ tư hoặc cũng gọi làmê sự hoặc (sự là sự trạng). Nhưng hai đạo này còn trênđường tu tập dứt hoặc chứ chưa hòan toàn thanh tịnh, nêncòn gọi chúng là hữu học, cho đến khi hòan toàn sạch hếtmê hoặc chứng đạt Niết-bàn mới gọi là vô học đạo,còn gọi là vô học vị. Lại do căn cơ người tu có hạ,trung, thượng nên kết quả khác nhau. Hạ căn phải nhờ nghegiáo pháp Phật để tu mới được giải thoát, đây là chủngtánh thanh văn, kết quả chứng A-la-hán. Trung căn không nhờsự nghe giáo, chỉ do tự lực quán sát lý Mười hai Nhân duyênmà dứt hoặc ngộ đạo. Ðây là chủng tánh duyên giác, kếtquả chứng độc giác Phật. Thượng căn trải nhiều kiếptu hành đầy đủ nhất thế chủng trí, dứt sạch mê hoặc,viên mãn công hạnh tự lợi lợi tha, chứng vô thượng giác.Ðây là chủng tánh đại giác.

Giáonghĩa của Hữu bộ từ khi tách khỏi Thượng tọa bộ chođến khi luận sư Ca-đa-diễn-ni tử ra đời mới tổ chứchoàn chỉnh có hệ thốngvới bộ luận Phát Trí của ông,được truyền bá mạnh nhất tại nước Ca-thấp-di-la (Kasmir,Kế Tân) ở Bắc Aán. Ðến giữa thế kỷ thứ hai TL, vua Ca-nị-sắc-cacủa Ca-thấp-di-la triệu tập Ðại hội Kết tập Kinh điểnlần thứ tư dưới sự chủ trì của các ngài Hiếp Tôn Giả,Pháp Cứu, Thế Hữu, Diệu Âm, Giác Thiên thuộc Hữu bộ (trongđó, Thế Hữu làm Thượng thủ), kết quả đặc bi?t củacuộc kết tập là cho ra đời bộ luận A-tỳ-đạt-ma ÐạiTỳ-bà-sa 200 cuốn, nhằm giải thích luận Phát Trí. Từ trướccác học giả A-tỳ-đạt-ma được gọi là Ðối pháp sư,từ khi luận Ðại tỳ-bà-sa ra đời thì các học giả nàyđược gọi là Tỳ-bà-sa sư, nghĩa là vị thầy giải thíchtỉ mỉ. Họ truyền bá rất mạnh Hữu bộ, tôn trọng luậnLục Túc, Phát Trí hơn kinh, mạt sát các kinh luận của cácbộ phái khác hành trì và cứ mê chấp chủ trương "Ba đờithật có, ba khoa đều thật", cho đó là chân lý, rồi chêbai kẻ khác.

Ðếnđây các luận thư của Hữu bộ đã phong phú, lý nghĩa dồidào đến chi li phiền toái, người học khó theo nổi, đòihỏi đến sách tóm lược. Ðáp ứng nhu cầu đó, Pháp Thắngđã viết A-tỳ-đàm Tâm luận, rồi Như Ý Luận sư viết VôY Hư Không Luận giải thích Tâm Luận. Pháp Cứu, đệ tửcủa Pháp Thắng (cũng gọi Pháp Thượng, Ðạt-ma-thi-la), khôngđồng ý Hư Không Luận nên viết Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luậnđể giải thích Tâm Luận của thầy mình. Các luận này tuynói là tóm lược Ðại Tỳ-bà-sa nhưng đã có nhiều điềukhông trung thực với Ðại Tỳ-bà-sa, nghĩa là không trung thựcvới lý thuyết Hữu bộ, nên khi Tâm Luận ra đời đượctruyền bá tại nước Càn-đà-la trở thành đối lập vớisự truyền bá của Ðại Tỳ-bà-sa ở Ca-thấp-di-la. Ngài ThếThân sinh tại Càn-đà-la đọc đến Tâm Luận, Tạp Tâm Luận,cùng giáo nghĩa của Kinh bộ có chỗ đồng tình, ngược lạikhông đồng tình một số giáo nghĩa chính của Hữu bộ nhưngHữu bộ đã tôn trọng nó hơn cả kinh Phật nói, nên ngàimuốn thẩm định lại thị phi, bèn cải trang đến tại Ca-thấp-di-langhiên cứu giáo nghĩa Hữu bộ, nhất là nghiên cứu bộ luậnÐại tỳ-bà-sa, được giữ nghiêm ngặt tại nước đó. Khiđến nơi ngài được vị A-la-hán Ngộ Nhập (Tác-kiện-đà)(Tây Tạng truyền rằng ngài học với Chúng Hiền là họctrò của Ngộ Nhập) truyền dạy giáo nghĩa Hữu bộ cho. Sau4 năm học hiểu thấu trọn giáo nghĩa Hữu bộ ngài đượcngài Ngộ Nhập ngầm khuyên trở về. Khi ngài trở về nướcbắt đầu giảng Ðại Tỳ-bà-sa, tập hết yếu nghĩa tạothành 600 bài tụng, trong đó thường thêm chữ "truyền thuyết"biểu thị sự không tin hẳn chủ trương "Ba đời thật có,pháp thể hằng có" của Hữu bộ. Sáu trăm bài tụng này đượcđưa đến Ca-thấp-di-la, các học giả Ca-thấp-di-la rất hoannghênh và yêu cầu giải thích, ngài đã giải thích và đúckết thành bộ luận Câu-xá với nội dung trình bày theo sựhiểu biết độc lập của mình chứ không thiên vị tông pháinào. Tuy ngài theo Hữu bộ, nhưng nếu giáo nghĩa nào của Hữubộ không đúng thì ngài đều bỏ qua, còn nếu giáo nghĩanào của Kinh bộ mà đúng thì thì ngài thu lấy, mục đíchlà trừ bỏ bịnh tình chấp ngoan cố hẹp hòi từ trướccủa nhà Hữu bộ, để phát huy chân lý Phật, và phát huychân lý Phật tức là để giúp cho chúng sanh khai sinh trí tuệ,đoạn trừ phiền não, lấy đó làm cách duy trì Chánh pháptồn tại lâu dài ở thế gian. Xem bài tụng cuốn luận nàyđủ thấy ngài không theo hẳn giáo nghĩa chính thống củaHữu bộ: "Nghĩa lý của Ca-thấp-di-la đã hoàn bị. Có mộtít điều chê bai đó là lỗi ở tôi, nhưng phê phán đâu làchính, điều đó chỉ do ở đức Mâu-ni". Ðối với luậnCâu-xá này, Tây Vức Ký cuốn 4 đã viết: "Bấy giờ có Bồ-tátThế Thân chuyên tâm đạo mầu, tìm hiểu nghĩa lý bên ngoàingôn ngữ, phá chỗ mê chấp của Tỳ-bà-sa, tạo luận Câu-xá,lời lẽ nghĩa lý tinh vi, lý trí cao siêu trong sáng".

Dolẽ trên nên khi luận Câu-xá ra đời được mọi người hoannghênh nghiên cứu và được tôn là Thông minh luận, khiếnLuận sư Chúng Hiền viết Thuận Chánh Lý luận 80 cuốn đểkích bác lại.

C.TỔ CHỨC CỦA BỘ LUẬN CÂU-XÁ.

Nhưđã biết, luận này nhằm mục đích phá thiên chấp của Hữubộ để làm sáng tỏ chân lý của giáo pháp. Tuy nhiên, đểthấy rõ chân lý ấy, Luận được trình bày như sau: Toànbộ luận này có 30 cuốn chia làm 9 phẩm:

1.Phẩm Phân biệt giới, 2 quyển
2.Phẩm Phân biệt căn, 5 quyển
3.Phẩm Phân biệt thế gian, 5 quyển
4.Phẩm Phân biệt nghiệp, 6 quyển
5.Phẩm Phân biệt tùy miên, 3 quyển
6.Phẩm Phân biệt hiền thánh, 4 quyển
7.Phẩm Phân biệt trí, 2 quyển
8.Phẩm Phân biệt định, 2 quyển
9.Phẩm Phân biệt ngã, 1 quyển

Chínphẩm này nhằm thuyết minh hai điều:

1.Tám phẩm đầu (29 quyển): Thuyết minh sự tướng của cácpháp.
2.Phẩm Phá ngã (1 quyển): Thuyết minh lý vô ngã.

Hoặcnói rõ hơn, toàn bộ Luận không ngoài thuyết minh về bốnnghĩa chính sau đây:

1.Thể dụng của vũ trụ vạn hữu (phẩm Giới và Căn).
2.Nhân và quả của mê (các phẩm 3, 4 và 5).
3.Nhân và quả của ngộ (các phẩm 6, 7 và 8).
4.Ðạo lý vô ngã (phẩm 9).

Ðồbiểu:
1.Thể dụng các phápThể(P.1)Nóitổng quát pháp hữu lậu, vô lậu.
Dụng(P.2)
2.Nhân quả của mêQuả(P.3)Nóiriêng về hữu lậu (mê)
Thânnhân (P.4)
Sơduyên (P.5)
3.Nhân quả của ngộQuả(P.6)Nóiriêng về vô lậu (ngộ)
Thânnhân (P.7)
Sơduyên (P.8)
4.Ðạo lý vô ngã(P.9)

D.TÔN CHỈ CỦA LUẬN

Nhưtổ chức của Luận này chắc chắn nó phải có đối tượngtôn sùng và có chủ đích để làm tôn chỉ. Vậy tôn chỉcủa nó là gì? Ðó là: "Quán sát cùng tột lý nhân quả củamê và ngộ để đạt đến chân trí vô lậu của Niết-bàn".Tại sao nói như vậy? Bởi lẽ, nếu không nhằm mục đíchấy, thì thuyết minh về thể tánh, tác dụng của vạn hữuở hai phẩm Giới và Căn gồm 7 quyển để làm gì? Thuyếtminh về nhân và quả của mê ở ba phẩm Thế gian, Nghiệp,Tùy miên gồm 14 quyển, để làm gì? Thuyết minh về nhân vàquả của ngộ ở ba phẩm Hiền Thánh, Trí, Ðịnh gồm 8 quyển,để làm gì? Và đả phá chủ trương Hữu ngã của luận pháicổ đại Aán Ðộ như Số luận (Samkhya) và Thắng luận (Vaisesika)và Ðộc tử bộ ở phẩm Phá ngã 1 quyển, để làm gì? Tấtcả đều nhằm mục đích phát khởi chân trí vô lậu củachúng sanh để quét sạch trần cấu vọng niệm vô minh màđạt đến Niết-bàn. Cứ xem đề mục của Luận thì càngthấy rõ tôn chỉ của nó. Ðề mục của Luận là: A-tỳ-đạt-maCâu-xá (Abhidharma Kosa). A-tỳ (Abhi) dịch là đối; Ðạt-ma(Dharma) dịch là pháp;Câu-xá (Kosa) dịch là tạng. Vậy A-tỳ-đạt-maCâu-xá là Ðối pháp tạng.

Ðốicó hai nghĩa: 1. Ðối quán lý mê ngộ (lý Tứ đế). 2. Ðốihướng quả Niết-bàn. Nhưng lấy cái gì để đối quán vàđối hướng? Ðó là trí tuệ vô lậu chân chính. Luận nàychứa đựng trọn vẹn trí tuệ ấy nên mệnh danh là Ðốipháp tạng. Ðã gọi là Ðối pháp tạng, thì tôn chỉ đượcthuyết minh trong đó không ngoài trí tuệ đối pháp.

Tómlại, giáo nghĩa của Luận này tuy trăm sai ngàn biệt, nhưngtôn chỉ trọng yếu không ngoài khai phát trí tuệ vô lậumà thôi.

Ð.PHIÊN DỊCH VÀ HOẰNG TRUYỀN

Luậnđược truyền sang do hai nhà dịch: Chân Ðế - người nướcƯu-thiền-ni (Ujyaini) ở Aán Ðộ sang Trung Hoa dịch thành 22quyển dưới triều Trần Văn Ðế, niên hiệu Thiên Gia thứ4 (563 TL), được các Ngài Trí Khải đời Trần và Tịnh Huệđời Ðường viết sớ giải truyền bá. Người thứ hai làHuyền Trang đời Ðường dịch thành 30 quyển, trong nhữngnăm 650 TL và có các Ngài Thần Thái, Phổ Quang, Pháp Bảo,Viên Huy, Huệ Huy viết sớ giải truyền bá. Từ đó, Luậnnày trở thành bộ Luận căn bản của Câu-xá tông tại TrungHoa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2022(Xem: 2190)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18799)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14560)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12662)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6806)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8917)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7937)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
07/12/2021(Xem: 4438)
Triết học Phật giáo và Cơ học Lượng tử luôn có sự hỗ tương cho nhau. * Sự kỳ lạ của Cơ học Lượng tử đến mức thách thức các nhà khoa học và triết học tìm hiểu một số nhận thức sâu sắc hơn về bản chất của thực tế. * Một nỗ lực để tìm cách diễn giải Copenhagen, và một số người tin rằng cách lý giải này dựa vào Thế giới quan Phật giáo. * Mặc dù tôi là một Phật tử nhưng tôi phản bác quan điểm vật lý học chứng minh Thế giới quan Phật giáo.
17/11/2021(Xem: 20512)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16899)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567