Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dẫn nhập

11/11/201017:54(Xem: 12455)
Dẫn nhập


DẪNNHẬP

SỰHÌNH THÀNH CỦA A-TỲ-ÐẠT-MA

Batạng: Tu-đa-la-tạng, Tỳ-nại-da tạng, A-tỳ-đạt-ma tạng.Chữ A-tỳ-đạt-ma luận thường để chỉ các luận thư củacác bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Ðại thừa.Abhidharma Trung Hoa dịch âm là A-tỳ-đàm, A-tỳ-đạt-ma, vàdịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Ðối pháp.

A.ÐỊNH NGHĨA

Nguyêntrong kinh A-hàm đức Phật dùng chữ A-tỳ-đạt-ma với dụngý tán mỹ các pháp nghĩa thâm huyền, rộng lớn không gì sánhkịp, dần dần nó biến chuyển qua nhiều nghĩa bởi các luậnsư của các bộ phái. Như luận sư Bà-sa thì gọi A-tỳ-đạt-malà phục pháp, vì nó hàng phục được tất cả tà thuyếtcủa ngoại đạo. Hóa địa bộ thì gọi là chiếu pháp, vìnó có khả năng chiếu soi tất cả tánh tướng các pháp. Thídụ sư thì gọi là thứ pháp, vì Niết-bàn là tối thượng,nó dưới pháp Niết-bàn một bực. Chánh lý sư thì gọi làThông pháp, vì nó có khả năng thấu đạt tất cả khế kinh.Hiếp Tôn Giả thì gọi là Cứu kính tuệ, Quyết đoán tuệv.v...đến ngài Thế Thân thì gọi là Ðối pháp với hai nghĩalà đối hướng và đối quán. Ðối là đối diện hướngtới. Ðối diện hướng tới Niết-bàn gọi là Ðối hướngNiết-bàn và đối diện quán sát pháp Tứ đế gọi là Ðốiquán. Pháp của Phật dạy không ngoài hai thứ là pháp Vô lậuthắng nghĩa (Niết-bàn) và pháp Hữu lậu pháp tướng. Trítuệ quán sát pháp tướng và chứng nhập Niết-bàn thì gọilà Ðối pháp trí hay A-tỳ-đạt-ma.

Ðạt-madịch là Pháp có nghĩa là tự giữ lấy tính cách nó (nhậmtrì tự tánh) và làm mẫu mực phát sinh cho sự nhận biết(quỹ sanh vật giải).

Ðạt-matức Dharma từ tự căn Dhri (giữ lại, mang) tức là cái đượcnắm giữ, hay lý tưởng nếu giới hạn ý nghĩa nó trong tácvụ tâm lý. Trình độ tâm lý sai biệt tùy sự tiếp nhậncủa mỗi cá thể:

1.Ở đức Phật nó là sự toàn giác hay viên mãn giác (Bồ-đề).
2.Lý tưởng diễn tả trong ngôn từ là giáo lý giáo pháp.
3.Lý tưởng đề ra cho đệ tử theo là luật nghi, đức lý,cấm giới.
4.Lý tưởng để chứng ngộ sẽ là nguyên lý, chân lý, bảntính, luật tắc, điều kiện.
5.Lý tưởng thể hiện trong một ý nghĩa tổng quát đó là sựthật thực tại, sự kiện, sự thể, yếu tố, (bị tạo haykhông bị tạo), tâm và vật, ý thể và hiện tượng. Trongtrường hợp phái duy thật của các luận sư A-tỳ-đạt-ma,chữ Ðạt-Ma được dùng nhiều nhất theo nghĩa thứ năm.

A-tỳtức Abhi (tiếp đầu ngữ) có nghĩa là hơn thế, nói về.Như vậy Abhidharma, có nghĩa là pháp tối thắng, hay là "Thắng",hay trần thuật về pháp. Ngài Buddhagosa (Phật Âm, Phật Minh)trong Na-tư-mạn-già-la Y-lạp-hy-ni (sách giải thích Dhiga Nikaya)dẫn bài tụng:" Có pháp tăng thịnh đặc thù, tôn trọng,nói rõ, tối thượng, thế gọi là A-tỳ-đạt-ma". Như vậynó rốt ráo có hai điểm. Về nội dung thì ý nghĩa thù thắng,về phương pháp luận cứu thì tường tận khúc chiết. NgàiPhật Âm còn nói:". Trong kinh, pháp ngũ uẩn chỉ được thuyếtminh một cách đại khái chứ không đi sâu vào chi tiết, còntrong A-tỳ-đạt-ma thì phân biệt kinh, phân biệt luận, phânbiệt vấn đáp, nên pháp ngũ uẩn được thuyết minh mộtcách cặn kẻ đầy đủ".

LuậnÐại Trí Ðộ nói: "A-tỳ-đạt-ma là gì? Ðáp: Là đối vấnmà đáp, hoàn toàn là hình thức luận cứu, nêu ra nhiều mặtđể phân biệt, như nói về 18 giới, thì phân biệt cái nàocó sắc, cái nào không sắc? Cái nào có thể thấy, cái nàokhông thể thấy? Cái nào hưũ lậu, cái nào vô lậu? Cái nàothiện, cái nào bất thiện? Cái nào hữu báo, cái nào vô báo?v.v....như thế gọi là A-tỳ-đạt-ma".

Lạinhư bảy kiết sử là dục nhiễm, sân nhuế, hữu ái, kiêumạn, vô minh, kiến, nghi (Kinh Mật Hoàn Dụ số 115, Trung A-hàm)trong đó cái nào là dục giới hệ (trói buộc ở cõi Dục)?.Cái nào là sắc giới hệ? Cái nào vô sắc giới hệ? Cáinào kiến đế đoạn?. Cái nào tư duy đoạn? Cái nào biếnsử? Cái nào bất biến sử? v.v...

NgàiChân Ðế và ngài Huyền Trang đều dịch Abhidharina là Ðốipháp, có nhiệm vụ tập hợp các pháp nghĩa lại rồi đemra phân loại, định nghĩa, giải thích và phân biệt. Ðốipháp có hai là Ðối quán lý Tứ đế và Ðối hướng quảNiết-bàn. Như vậy không thể hiểu Abhi,A là vô, Bhi là tỷmột cách máy móc được.

B.NGUỒN GỐC CỦA A-TỲ-DẠT-MA

Nóđã bao gồm trong sự thuyết pháp của đức Phật. Ðức Phậtthuyết pháp một cách ung dung tự tại. Lời Phật nói đơngiản minh bạch không có gì bí mật. Phật đã phân biệt vàphân loại một cách rõ ràng. Như vậy nguồn gốc của A-tỳ-đạt-maxuất phát từ Phật.

QUÁTRÌNH PHÁT TRIỂN LUẬN THƯ A-TỲ-ÐẠT-MA

Thờikỳ 1: Luận thư còn giữ hình thức khế kinh. Trong thời kỳ100 năm sau Phật Niết-bàn, chưa chia kinh luận như kinh A-hàmcòn truyền đến ngày nay là do học phong của Giáo hội Tăngđoàn mà được chỉnh lý và A-tỳ-đạt-ma hóa, cho nên trongđó có những kinh mang nhiều sắc thái như luận, như kinh TăngNhất, Tạp A-hàm, kinh Thế Ký trong Trường A-hàm và Phân BiệtBộ trong Trung Bộ, kinh Chúng Tập trong Trường Bộ.

Thờikỳ 2: Luận thư giải thích nghĩa kinh. Lấy kinh làm bối cảnhrồi định nghĩa, phân loại, phân biệt, giải thích nhữngđiều đã nói trong kinh chứ chưa phát huy vấn đề gì đặcsắc độc lập, như Vô Ngại Ðạo Luận của Phật Âm, Ma-ha-ni-luật-sa,Cưu-lạp-ni-luật-sa trong Tiểu Bộ hay như Hán dịch Pháp UẩnTúc Luận, Tập Dị Môn Túc Luận.

Thờikỳ 3: Luận thư tiến tới độc lập. Thời kỳ này Luậnthư không còn bàn giải nghĩa kinh mà lấy tất cả đề mụccủa các kinh tập hợp lại rồi phân loại một cách tườngtận và theo mọi tiêu chuẩn để phân biệt tính chất cácđề mục ấy, nội dung dần dần bao hàm các vấn đề sựthật độc lập hẳn với kinh luật. Ðó là thời kỳ xuấthiện bảy bộ luận của Phật giáo Nam phương và Ðại Tỳ-bà-saluận của Hữu bộ, Thành Thật luận của Kinh bộ.

Thờikỳ 4: Là thời kỳ Luận thư cương yếu. Các luận thư A-tỳ-đạt-maphát huy giáo nghĩa của các bộ phái khi đã phát triển thìmắc phải cái nạn quá nhiều, khó học hỏi nổi, nên đòihỏi phải có các luận thư toát yếu. Bộ luận thư toát yếura đời đầu tiên là bộ A-tỳ-đàm Tâm Luận của Pháp Thắng(Ðạt-ma-thi-la), đến Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận của Pháp Cứu,học trò Pháp Thắng, rồi đến Câu-xá luận của ngài ThếThân, Thanh Tịnh Ðạo luận của ngài Phật Âm, luận A-tỳ-đạt-maNghĩa Tập của ngài A-nậu-lâu-đà. Hai bộ sau này thuộc Thượngtọa bộ Tích Lan.

Tómlại, phương pháp xử lý vấn đề của các A-tỳ-đạt-malà trước hết nó hoàn toàn phụ thuộc vào kinh, chỉ có kinhlà có quyền chứng tuyệt đối. Rồi dần dần từ việc giảithích từng mỗi câu kinh tiến lên thuyết minh toàn thể tưtưởng được gói ghém trong các câu kinh, trong sự tiến bộđó nó đã nảy sinh ra thái độ phê phán tư tưởng trong kinh,cho đến khi không còn bị kinh chi phối, thậm chí không tôntrọng kinh bằng luận. Luận Ðại Tỳ-bà-sa cuốn 5 nói: "Nếucứ khư khư chấp chặt từng câu kinh mà không đạt quan chânlý của nó thì người ấy là "Trước văn Sa-môn". Ðó làthái độ của Hữu bộ lấy A-tỳ-đạt-ma làm trung tâm. Vàtheo ngài Chân Ðế thì Kê dẫn bộ còn cho rằng: "Kinh luậtchẳng qua chỉ là phương tiện, còn đệ nhất nghĩa đế chínhthật nằm trong A-tỳ-đạt-ma". Như vậy A-tỳ-đạt-ma đãcó chỗ đặc sắc không giống khế kinh. Chẳng hạn, ở khếkinh chú trọng giá trị tu chứng thực tiễn theo ch? trương"chuyển mê khai ngộ" cho nên những điều gì không thiết thựcgiúp cho việc chuyển mê khai ngộ thì đức Phật bỏ qua khôngnói đến. Trong những Pháp môn Ngài dạy để chuyển mê khaingộ, Ngài chỉ dạy những điều vừa đủ hiểu để tu hành,nhưng đến A-tỳ-đạt-ma thì chuyển sang chú trọng nghiêncứu vấn đề sự thật. Thay vì xử lý các vấn đề tu dưỡngtrước, thì A-tỳ-đạt-ma lại lo thuyết minh một cách tinhtế về sự thật liên quan đến nhân sanh vũ trụ trước rồisau mới đề cập vấn đề tu dưỡng. Chủ ý các luận sưA-tỳ-đạt-ma tuy không coi thường vấn đề tu dưỡng nhưngmuốn xác lập lý tưởng tu dưỡng thì trước phải xác địnhsự thật.

Sauhết, nhìn vào phạm vi phân chia các vấn đề cứu xét sựbất đồng giữa mới và cũ. Lúc đầu A-tỳ-đạt-ma chỉluận cứu những đề mục đặc thù như thiền định, trítuệ... Nhưng trong quá trình tiến bộ liên tục nó đã lấyviệc thuyết minh các đề mục đó một cách hệ thống làmnhiệm vụ và để tránh khó khăn nó lại chia các vấn đềđó ra từng bộ môn (chư môn phân biệt). Do đó mới có nhiềuluận thư, và sau cùng để tiện việc học hỏi lại có cácluận thư cương yếu ra đời.

C.CÁC LUẬN THƯ CỦA THƯỢNG TỌA BỘ

1.Pháp Tụ Luận (Dhamma Sanghani)
2.Phân Biệt Luận (Vibhanga)
3.Giới Thuyết Luận (Dhatu Katha)
4.Nhân Thi Thiết Luận (Pudgala Pannati)
5.Song Ðối Luận (Yamaka)
6.Pháp Trí Luận (Patthana)
7.Thuyết Sự Luận (Kathavasthu)

Ngoàibảy luận thư cơ bản này còn có các luận thư được sángtác tiếp theo:

- ThanhTịnh Ðạo Luận (visudhimagga) của ngài Phật Âm thế kỷ 5TL, có giá trị như một bộ bách khoa toàn thư Phật giáo,tính chất tương đương Câu-xá Luận đối với Hữu bộ.Ðây là sách tiêu chuẩn của tân Thượng tọa bộ.
-Trường Tập Kinh Chú Sớ (Sumangala Vilasini) sách giải thíchTrường Tập Kinh (Trường Bộ Kinh).
-Attha Salina, sách chú thích bộ Luận Pháp Tụ.
-Ngũ Thư Thuật Nghĩa (Panca-Pakarana Atthokattha): Năm sách Chúsớ Ðối pháp tạng.

Saungài Phật Âm có nhiều tác phẩm ra đời, trong đó có giátrị nhất là bộ A-tỳ-đạt-ma Nghĩa Tập Luận (AbhidharmatthaSangaha; H.T Minh Châu dịch Thắng Pháp Tập Yếu) này do ngàiA-nậu-lâu-đà (Anuruddha) viết thế kỷ 8 T.L. Ðây là bộ sáchngắn gọn toát yếu giáo nghĩa Phật giáo, làm sách chỉ namcủa Phật giáo Nam phương, với những giải thích xác đángrõ ràng giáo nghĩa của Thượng tọa bộ nên nhiều nơi đãdùng nó thay cho Thanh Tịnh Ðạo Luận.

D.CÁC LUẬN THƯ CỦA HỮU BỘ

1.Pháp Uẩn Túc Luận (Dharma Skandha): 12 cuốn, do Ðại-Mục-kiền-liên(Mahamogalyayana), có thuyết nói do Xá-lợi-phất viết lúc Phậttại thế.
2.Tập Dị Môn Túc Luận (Sangti paryaya pada) do Xá-lợi-phất viếtlúc Phật tại thế. (20 cuốn)
3.Thi Thiết Túc Luận (Prajnapti): Do Ca-chiên-diên (Kaiyaya) viếtlúc Phật tại thế, chưa dịch ra Hán văn.
4.Thức Thân Túc Luận (Vijnanakaya): 16 cuốn do Ðề-bà-thiết-ma(Devasarman) viết sau Phật Niết-bàn 100 năm . 5. Phẩm LoạiTúc Luận (Ptrakarama): 18 cuốn do Thế Hữu viết sau Phật Niết-bàn300 năm, cũng dịch là Chúng Sự Phần A-tỳ-đàm Luận (1).
6.Giới Thân Túc Luận (Dhatukaya): 3 cuốn do Thế Hữu viết sauPhật Niết-bàn 300 năm [*]
7.Phát Trí Luận (Janna Prasthana, A-tỳ-đàm Bát-kiền-độ Luận):20 cuốn do Ca-chiên-diên tử (Katyayaniputra - Ca-na-diễn-ni tử)viết sau Phật Niết-bàn 300 năm.

[*]Có trước Đại Tỳ Bà Sa . Có giá trị nhất trong các luậnkhác thời đó . Sau đệ tử thấy nhiều mới gom lại thànhGiới Thân Túc Luận.

Bảybộ luận này, bộ Phát Trí gọi là Thân Luận, còn sáu bộkia gọi là Túc Luận, vì nó là chỗ dựa cho luận Phát Tríđược thành, và vì nghĩa lý chứa đựng trong nó ít ỏi khôngbằng nghĩa lý trong Phát Trí Luận rộng hơn. Trong đó ba bộviết ra lúc đức Phật còn tại thế, bốn bộ viết ra saukhi Phật Niết-bàn. Ngoài bảy bộ luận cơ bản này, Hữubộ còn có các luận thư để quảng diễn nghĩa lý các bộtrên như:

- LuậnÐại Tỳ-bà-sa (Mahavibhasa) 200 cuốn, là kết quả của Ðạihội Kiết tập lần thứ tư vào giữa thế kỷ 2 T.L tại Ca-thấp-di-la(Kasmir, Kế Tân) do các ngài Thế Hữu, Diệu Âm, Giác Thiên,Pháp Cứu, Hiếp Tôn Giả chủ trì với sự ủng hộ tận lựccủa vua Ca-nị-sắc-ca (Kaniska). Bộ này quảng diễn giáo nghĩacủa luận Phát Trí.

- A-tỳ-đàmTâm Luận (Abhidharmahridaya) do Pháp Thắng (Ðạt-ma-thi-la) tạovào thế kỷ 6 sau Phật Niết-bàn (đầu thế kỷ 3 T.L), toátyếu Ðại Tỳ-bà-sa Luận.

- TạpA-tỳ-đàm Tâm Luận (Samyutara Abhidhar-mahridaya) do đệ tử củangài Pháp Thắng là Pháp Cứu (Tăng-già-bạt-ma) tạo vào thếkỷ 7 sau Phật diệt độ (đầu thế kỷ 4 T.L) nhằm làm rõnghĩa trong A-tỳ-đàm Tâm Luận, vì cho A-tỳ-đàm Tâm Luậnquá giản lược.

- Câuxá Luận (Abhidharma Kosa) do Thế Thân (Vasubhandhu) tạo vào 900năm sau Phật diệt độ (đầu thế kỷ 5 T.L), 30 cuốn.

- ThuậnChánh Lý Luận: 80 cuốn, do Chúng Hiền đồng thời Thế Thântạo, nhằm bác lại Câu-xá.

- HiểnTông Luận: 40 cuốn do Chúng Hiền tạo, nhằm nêu bật tôngnghĩa của Hữu bô.

- KinhLượng Bộ - Có Thành Thật Luận 20 cuốn.

Đ.CÁC LUẬN THƯ DO AI NÓI?

Theongài Phật Âm trong Nam phương Phật giáo thì cho rằng, sau khithành đạo, đức Phật ngồi tư duy dưới cội Bồ-đề, vàvề sau trong các buổi thuyết pháp cho thân mẫu trên cung trờèao-lợi, chính đức Phật đã nói sáu bộ luận đầu trongbảy luận thư thuộc Thượng tọa bộ. Sáu luận thư này đãđược hình thành tại Ðại hội Kiết tập lần thứ ba, cònbộ Luận Sự thứ bảy do Mục-kiền-liên tử Ðế-tu làm rakhoảng 200 năm sau Phật Niết-bàn, nhưng cũng do lời Phậtchú ký mà làm, nên về quan hệ vẫn được xem như do chínhPhật nói. Trái lại, về phía Bắc phương Phật giáo thì chorằng các luận thư A-tì-đàm không phải do Phật nói mà làdo các đệ tử Phật nói trong các thời gian khác nhau, hoặctrong lúc Phật tại thế, hoặc sau khi Phật Niết-bàn. Quanđiểm của Bắc phương sát với sự thật hơn.

-ooOoo-

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/03/2018(Xem: 10224)
Sài Gòn- Trần Củng Sơn- Sáng ngày Thứ Sáu 9 tháng 3 năm 2018, giáo sư Vũ Thế Ngọc đã trình bày về triết học của Tổ sư Long Thọ tại chùa Xá Lợi Sài Gòn với sự tham dự khoảng một trăm thiện hữu tri thức Phật Giáo. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc- một cây bút nổi tiếng trong nước về những bài viết về tuổi trẻ và Phật Giáo- đại diện Ban tổ chức giới thiệu diễn giả.
13/03/2018(Xem: 11333)
Từ lúc sinh ra, tất cả chúng ta muốn sống một đời sống hạnh phúc và đó là quyền của chúng ta. Tuy nhiên, nhiều người cùng chia sẻ quan điểm rằng hệ thốn giáo dục hiện hữu của chúng ta là không đầy đủ khi đi đến việc chuẩn bị cho con người yêu thương hơn – một trong những điều kiện để hạnh phúc. Như một người anh em nhân loại, tôi nguyện làm cho mọi người biết rằng tất cả chúng ta cùng sở hữu những hạt giống của từ ái và bi mẫn. Có một bộ não thông minh chưa đủ; vì chúng ta cũng cần một trái tim nhiệt tình
05/03/2018(Xem: 5323)
Chân Thường Cuộc Sống Con Người! Thanh Quang Mỗi Con Người đều có Một Cuộc Sống- Cuộc Sống để Làm Người, nếu Con Người không có Ý Tâm- Cuộc Sống, Con người không thể Sống! Cuộc Sống Con Người, người ta thường phân ra Cuộc Sống Tinh thần Ý Tâm- Tâm Ý và Cuộc Sống Vật chất. Hai cuộc sống đó không thể tách rời nhau! Cái Thân Con Người ai cũng biết là duyên sinh giả hợp, tùy duyên theo luật sống Vô Thường-Sinh, Lão, Bệnh, Tử, không ai có thể sống hoài, sống mãi, vấn đề là Sống Với ai? Sống để làm gì? Sống như thế nào? Đời này và mai sau….
05/03/2018(Xem: 5602)
Giọt móc cỏ đầu phơi Tâm vô sắc tướng, có tạm bất an nhưng sẽ trở lại tự tánh không. Sắc thân, sinh diệt vô thường như mộng như ảo ảnh. An nhiên quán tự tại trong hiện tại không sợ hãi thất bại, đau khổ hay tham cầu mong thành công, hạnh phúc. Để tự nó đến đi tự nhiên rồi thì sẽ có đầy đủ cả hai. Để rồi đau khổ trong khoái lạc hay khoái lạc trong khổ đau? Vạn vật, có không,vô thường như sương ban mai đọng trên đầu những ngọn cỏ trước vô môn quan chỉ hiện hữu thoáng qua như những dòng chảytrong tâm tưởng. Tóm lại, AI (không có chủ từ ở những câu trên) đang bận tâm đây?
05/03/2018(Xem: 6705)
Lại có chút Ý Duyên-Duyên Ý với tác giả Lê Huy Trứ qua bài viết “Tâm Tạo-Lê Huy Trứ chúng tôi có một vài vấn đề trao đổi thêm về “Ý” -Con đường đạo pháp Phật Đà.(xem thêm:”Một vài Ý qua bài viết ”Thì cành Mai đã nở” của Minh Đức Triều Tâm Ảnh ) 1.Con Người là cuộc sống Ý Tâm -Tâm Ý -Ý Ngời. Con Người ai cũng có Tâm, Tâm là Cuộc sống Tâm Ý của Con Người. Con Người Sống là-Sống Ý Tâm,“-Ý làm chủ-Ý Tạo”. Tâm là tất cả Cuộc Sống Con Người Ý-cả Ý Vô Ngã Không-Ý Ánh sáng Ý và cả ý Phân biệt, ý khổ, ý nghiệp…., và cả Ý giải thoát…Tâm Không chưa phải là có Ý Giải thoát…..; Giải thoát là Ý Trung-Ý Huệ-Ý Giải thoát….
05/03/2018(Xem: 6977)
Khoa học kỷ thuật hiện đại đang dùng “Tâm ta” để sáng tạo robots với Artificial Intelligence (AI) trong những robots máy kia. Dĩ nhiên với suy nghĩ và hành động đơn phương độc đạo như người. Đây có thể là nhược điểm của nhân sinh mà chúng ta đã biết nhưng vẫn chưa cải tiến được. Điều mà chưa ai nghĩ tới đó là những bồ tát robots này chưa biết vô minh là gì cho nên chưa thật sự được con người viết super program và quantum software làm cho robots trở thành vô minh với tham sân si như là người phàm phu thật sự. Vì con người chưa đủ kiến thức, chưa đạt tới trình độ để biết language của vô minh, tham sân si và nhất là Tâm là cái gì để có thể nắm bắt rồi bỏ tất cả chúng nó vào não robots như là “AI” đó đã cố tâm hay vô tình, lầm lỡ bỏ những cái nghiệp quả báo hại đó vào thân xác của ta, rồi làm cho ta cứ ngỡ nhầm đó là “tâm ta ở trong thân ta.”
03/03/2018(Xem: 5155)
Não & Tâm Lê Huy Trứ Trong tựa đề, “Có phải Tâm là sản phẩm của Não hay Não nhận chỉ thị từ Tâm? ” Arjun Walia “Is Consciousness A Product Of The Brain Or Is The Brain The Receiver Of Consciousness?” Arjun Walia Arjun Walia diển tả, “Tâm là đường lối chúng ta cảm nhận và quan sát thế giới của chúng ta, chúng ta có thể nghĩ, chúng ta cố ý, cảm nhận, nhạy cảm hơn. Câu hỏi lớn nhất cho nhân tâm ngày nay “rằng thì là” (whether) nó đơn giản là một sản phẩm của não của chúng ta, hay nếu não nhận chỉ thị từ Tâm. Nếu Tâm không là đặc sản của não bộ thì nó có nghĩa là cái nhân thể vật chất không bị lệ thuộc vào chuỗi tâm thức, hoặc tự tâm.”
03/03/2018(Xem: 23149)
CHÁNH PHÁP Số 76, tháng 03.2018 Hình bìa của Google Images NỘI DUNG SỐ NÀY: ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ VU VƠ, CAFÉ PALOMA (thơ Nguyễn Bá Trạc), trang 8 ¨ NỘI DUNG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ ĐIỂM HẸN, MƯỢN TỪ ĐÂU (thơ NT Khánh Minh), trang 12 ¨ CŨNG LẠI LÀ TIM SEN (ĐNT Tín Nghĩa), trang 13 ¨ XUÂN ĐẠO, HƯƠNG XUÂN (thơ Chúc Hiền), trang 15 ¨ THƯ MỜI THAM DỰ LỄ HÚY NHẬT ĐLHT. THÍCH TRÍ CHƠN (TT. Thích Hải Chánh), trang 16 ¨ TÂM THƯ VẬN ĐỘNG MUA CƠ SỞ MỚI LÀM CHÙA BÁT NHà (HT. Thích Nguyên Trí) 17 ¨ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG (Tuệ Uyển dịch), trang 18 ¨ MÙA XUÂN & CỎ HOA (thơ Mặc Phương Tử), trang 21 ¨ Ở ĐỜI VUI ĐẠO (Nguyễn Thế Đăng), trang 22 ¨ ĐÊM NGHE CHUÔNG VỌNG (thơ Huệ Trân), trang 23 ¨ MÙA XUÂN, THI CA VÀ THIỀN ĐẠO (Sakya Minh Quang), trang 24 ¨ TA ÚP MẶT (thơ Quách Thoại), trang 27 ¨ FRANCIS STORY (1910 – 1971) (H
03/03/2018(Xem: 7862)
Có những vần thơ gắn liền với mỗi người từ thuở biết viết, biết đọc cho đến lúc trưởng thành, đi theo suốt cuộc đời, và cũng có thể…cho đến hơi thở cuối cùng. Những vần thơ hay những câu thơ của những thi sĩ nổi danh mà mình đã thuộc nằm lòng, đã ghi nhớ tận đáy sâu của ký ức, và bỗng một lúc nào đó, ở một tình huống nào đó, một nhân duyên nào đó, tự chúng hiện ra một cách tự nhiên trong dòng tư tưởng, sự nghĩ suy, và bộc ra thành lời nói như là của chính mình và đôi lúc, chỉ nhớ đến vần thơ, câu thơ đó mà cũng không hề nhớ đến tác giả là ai nữa ! Các vần thơ, các câu thơ ấy thực sự đã gắn liền với mình, với đời sống mình, đôi lúc còn được xem như là kim chỉ Nam để giúp mình phản ứng, cư xử trước mọi hoàn cảnh, vui hay buồn, tốt hay xấu đang xảy ra.
27/02/2018(Xem: 5808)
Cái tự tánh của tâm viên luôn luôn thay đổi vô thường rất khó mà chuyên tâm nhất trí, chú tâm lâu dài. Kinh Pháp Cú mở đầu, “Tâm làm chủ, tâm tạo!” Hiểu theo nghĩa thông thường chấp ngã của phàm phu là tâm ta làm chủ mọi hành động của ta, tạo ra mọi tư duy và dẫn đến hành động của ta. Tâm phan duyên dẫn ta đi vòng vòng từ suy nghĩ này qua tư tưởng khác thay vì ta dễ dàng nắm bắt, hàng phục được cái tâm bất trị đó. Nhưng bồ tát không thấy tâm chủ, tâm tớ, tâm ta. Không có hành động và tư duy của người, không có suy tư và hành động của ta. Tôi nghĩ, ngay cả giữa Có và Không cũng không có sở trụ để chấp. Chẳng hạn, nhân sinh thường chấp ngã, lưu luyến sống trong quá khứ và lo lắng cho tương lai của chính mình. Chúng ta thường được giảng dạy là phải sống với hiện tại, ngay trong giờ phút này, nhưng ngay cả cái hiện tại chính giữa này cũng vô định xứ, thay đổi
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567