Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vị đạo nhân không y cứ

18/10/201012:58(Xem: 3697)
Vị đạo nhân không y cứ




vi-dao-nhan-khong-y-cu

Sau Lục Tổ Huệ Năng (638-713), Thiền Tông phương Nam của ngài chia làm hai hệ phái do hai đệ tử của ngài đứng đầu là Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744) và Thanh Nguyên Hành Tư (?- 740). Về sau, hệ phái Thanh Nguyên gồm ba dòng là Tào Động, Pháp Nhãn và Vân Môn, còn hệ phái, còn hệ phái Nam Nhạc truyền ra hai dòng là Lâm Tế và Quy Ngưỡng. Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-867) đã mở ra một dòng thiền lớn kéo dài cho đến ngày nay, có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo Trung Quốc, Việt Nam, Cao Ly và Nhật bản. Riêng tại Việt Nam, Thiền Lâm Tế có mặt và phát triển liên tục đến nay kể cũng đã hơn bảy thế kỷ.

Tố Lâm tế nổi danh với cách ứng cơ tiếp vật, giáo hóa đồ chúng thật hóc hiể, kỳ khôi. Ngài đã sử dụng những nghịch lý, những phép biện chứng siêu việt. Ngọn hèo, tiếng quát vẫn như còn sống động rung chuyển khi ta đọc đến những hành trạng, pháp ngữ của ngài qua các Thiền lục như Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên, Cao Tăng Truyện., Thiên Nhân Nhãn Mục, Thung Dung Lục, Bích Nham Lục, Viên Ngộ Tâm Yếu, Truyền Pháp Chánh Tông Ký, Tổ Đình Sự Uyển…Nhưng  tác phẩm quan trọng nhất hẳn là tập “ Lâm Tế Ngữ Lục”do đệ tử thọ pháp của ngài là Bảo Thọ Diên Chiếu ghi chép.

Thiền lục này gồm hai phần: Thị chúng và Khám biện. Theo cách phân chia của người sau khi mở đầu phần Thị chúng là mười bài ngắn nói về cách ứng cơ của ngài, thường rất khó hiểu và đầy những nét kỳ đặc trong phương pháp và hành trạng. Riêng phần lớn của phần Thị chúng là những lời dạy thâm thiết đậm đà, ân cần và lắm khi mạnh mẽ, khốc liệt. Nội dung chủ yếu là nói về cái tâm vô phân biệt, sự phá chấp, thực hiện tính bình đẳng, thâm nhập cái không, cái vô tướng của vạn pháp. Thái độ vô chấp của một cái tâm bình thường nhưng vô cùng diệu dụng chính là thái độ của người hành đạo không thiên chấp, không vướng vào các hình tướng, ý niệm. Tố Lâm Tế gọi con người ấy là vị đạo nhân không y cứ (vô y đạo nhân).

Trong Lâm Tế Ngữ Lục có bốn chỗ nhắc đến vị đạo nhân không y cứ, đều thuộc phần Thị chúng:

1-   Khi nói về kiến giải chân chánh, Tổ Lâm Tế nhấn mạnh đến sự vô phân biệt, vô chấp trước để thấy rõ cái không tướng của các pháp:

“ Phật ra đời chuyển đại pháp luân hồi nhập Niết-bàn, chẳng thấy tướng mạo đi đến chi cả, tìm cái sinh tử rốt ráo không thể được, bèn vào pháp giới vô sanh, đi khắp các quốc độ và thế giới Hoa tạng, thấy rõ hết cái không tướng của các pháp, tất cả đều không phải thực pháp. Chỉ có vị đạo nhân không y cứ là mẹ của chư Phật mà thôi. Cho nên Phật từ chỗ không y cứ mà sanh; nếu ngộ sự không y cứ thì Phật cũng không có sự đắc. Nếu thấy như vậy thì gọi là kiến giải chân chánh” (bài 15)/

2-  Vì không y cứ, không nương tựa vào đâu, nên vị đạo nhân không y cứ không chấp cảnh, không nghi ngờ, chỉ một mực vượt lên, đạp lên, hay cưỡi lên trên cảnh:

“ Thấy được cái người cưỡi lên trên cảnh thì đó là huyễn chi của chư Phật. Cảnh của Phật không tự  nói rằngnó là cảnh của Phật, chính là vị đạo nhân không y cứ cưỡi lên cảnh mà ra thôi” (bài 17).

3- Phá chấp đến triệt để phủ nhận mọi tình huống, ý niệm, ngôn cú, văn tự, chỉ một mực nhận rõ cái không của vạn vật là thái độ của con người hành đạo bình thường mà cũng là của con người siêu việt:

“Cho nên đạt được sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều là không tướng thì chúng không thể trói buộc vị đạo nhân không y cứ này được. Tuy là vật chất năm uẩn mà cũng là địa hành thần thông (bài 19).

4-  Giải thích rõ hơn vị đạo nhân không y cứ là thế nào, là ai, ngài Lâm Tế nói đấy là cái tâm bình thường, không phân biệt; bao giờ cũng thế, không khác; đấy là bản lai diện mục; tâm ấy hay vị đạo nhân không y cứ ấy là Phật, là Tổ, là cái Tâm bình đẳng tuyệt đối, viên mãn, nhưng lại rất bình thường, chính là tâm của mỗi con người; cái tâm đang đối diện với mọi sự nhưng không hề chấp trước, phân biệt; cái tâm đang nghe pháp ngay đây:

“ Cho nên người xưa nói, “tâm bình thường là đạo”. Này các Đại đức, các ông tìm cái chi? Vị đạo nhân không y cứ nghe pháp ngay trước mạt các ông đây, rõ ràng mồn một chưa từng khiếm khuyết. Nếu các ông muốn cùng với Phật và Tổ không khác thì hãy thấy như vậy, chẳng nên nghi ngờ. Các thứ tâm của các ông mà không khác thì gọi là vị Tổ sống; tâm mà có khác thí tánh và tướng khác nhau. Do tâm không khác nên tánh và tướng không khác nhau. (bài 18).

Suốt phần Thị chúng, Tổ Lâm Tế chỉ nhằm đả phá cái ý niệm phân biệt tâm, cảnh; phân biệt tánh, tướng, ngôn từ, ý niệm…Tổ luôn trỏ cái ngay ở đây, bây giờ đây, cái người đang hiện diện đây mà không có niệm nào phân biệt thì đấy là đạo nhân không y cứ, là Tổ, là Phật, là thần thông diệu dụng, là tự tại, giài thoát. Niết-bàn. Tổ tha thiết dặn dò:

“ Các ông có muốn hiểu được Phật, là Tổ chăng? Kẻ nghe pháp trước mặt các ông đây là đấy vậy. Người học tin chưa tới mà cầu tìm bên ngoài, dủ cho tìm được thì cũng đều là mặt nổi của văn tự, rốt lại chằng được cái ý linh hoạt kia của Tổ. Chớ lầm, này các Thiền đức, giờ đây không gặp thì trăm kiếp ngàn đời, luân hồi ba cõi, cứ theo cảnh dẫn thì sanh vào bụng của bò, lừa” (bài 11).

Thì ra vị đạo nhân không y cứ cũng chính là chúng ta đây, kẻ đang nghe pháp, học Phật, và chính là đồng bạn với chư Phật,chư Tổ nếu chúng ta vất bỏ sự chấp trước, trói buộc, nếu chúng ta từ bỏ ý niệm phân biệt, cầu tìm:

“ Này các Đạo lưu, người đang nghe rõ mồn một trước mắt đây, người ấy không bị chìm đắm vào đâu cả, thông suốt mười phương, tự tại ba cõi; mà trong mọi sai biệt của cảnh mà không bị chuyển đổi trong một sát-na, suốt nhập pháp giới; gặp Phật nói chuyện với Phật; gặp Tổ nói chuyện với Tổ;gặp A-la-hán nói chuyện với A-la-hán; gặp Ngạ  quỷ nói chuyện với Ngạ quỷ; hướng đến khắp nơi, rong khắp quốc độ, giáo hóa chúng sanh, chưa từng rời một niệm; khắp nơi điều thanh tịnh, soi suốt mười phương, vạn pháp như một” (bài 14 ).

Đạo nhân không y cứ còn được Tổ gọi là bậc Chân nhân không ngôi vị (vô vị chân nhân). Bậc trượng phu, hoặc một cách bình thường, nhưng đầy ý nghĩa, là “người đang lắng nghe pháp đây”. “người đang nghe pháp trước mắt các ông đây”… Trong phần Thị chúng, Tổ đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần về sự phá bỏ chấp trước, thực hiện vô tâm. Lời dạy ân cần, tha thiết, tỉ tê, kỹ càng như tình lão bà thương cháu, từ mẫu thương con. Sự trùng lặp về ý này được tô điểm bằng những sắc thái linh động của văn từ, hình nảh, khiến người đọc được dẫn dắt từng bước một, chuẩn bị một chuyển biến lớn trong tâm. Ta hãy lấy một đoạn làm thí dụ:

“ Này các Đạo lưu, Phật chân thật không có hình pháp chân thật không có tướng. Các ông cứ vin vào cái huyễn hóa là làm này làm nọ thì dù có cầu được cũng đều là bọn chồn hoang tinh mị, đều chẳng phải là Phật chân chánh thì không chấp vào Phật, không chấp vào Bồ-tát, La-hán, không chấp vào sự thù thắng của ba cõi, riêng mình giải thoát, không bị trói buộc vào vật. Trời đất nghiêng ngã ta cũng chẵng nghi; chư Phật mười phương dù có hiện ra  trước mắt ta cũng chẳng có một thoáng vui mừng; ba đường địa ngục bỗng mở ra ta cũng chẳng có chút sợ hãi. Cớ sao vậy? Đấy là vì ta thấy cái không tướng của các pháp, biến thì vậy, không biến thì không có. Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức. Cho nên hoa đốm giữa hư không mộng huyễn thì hơi đâu mà nắm bắt” (bài 19)

Những lời khuyên dạy từ ái, nhẹ nhàng không thiếu cho trong những lần thuyết pháp của Tổ. Nhưng phương pháp dạy dỗ không chỉ như thế, Tổ vẫn nổi tiếng với những phương pháp mạnh mẽ, hùng hồn;  bằng hèo vung, bằng miệng quát, bằng những từ ngữ thô tháo. Tất cả chỉ nhằm làm cho người học tỉnh ngộ, phá chấp. Chỉ nhằm dồn chỗ u minh vào chân tường để đập vở nó. Tổ vạch ra những tai hại của kiến chấp, điều này không phải là mới trong Thiền học. Con đường đi đến chứng ngộ đầy gian lao, cần một năng lực mạnh mẽ, một sự tự tin tuyệt đối để phá vở vô minh tinh chấp. Tổ ví năng lực ấy như gươm trí của ngài Văn Thù để “Một đao vô thẳng, dù Na Tra tám tay cũng không can nổi, hai mươi tám Tổ ở Tây Thiên, sáu Tổ ở Đông Độ cũng chỉ phải ép mình xin tha mạng”. (Vô Môn Quan). Ở đây, ngôn ngữ văn tự dùng để chuyên chở  ý tưởng, chính ý tưởng, và dĩ nhiên là cả ngôn ngữ văn tự, phải bị xóa bỏ, phải được vượt qua:

“ Này các Đạo Lưu, chớ xem Phật ra làm  cứu cánh; ta xem Phật như hố xí, Bồ-tát, A-la-hán đều là gông cùm, là vật trói người. Cho nên Văn Thù mang kiếm giết Cổ-Đàm, Ương Quật cầm đao hại họ Thích” ( bài 23).

Thái độ của vị đạo nhân không y cứ vẫn phải dứt khoát, triệt để:

“ Này các Đạo lưu, nếu ông muốn có kiến giải chân chính thì đừng sợ người ta mê hoặc; quay vào bên trong, quay ra bên ngoài, gặp gì giết đó; gặp Phật giết Phật; gặp Tổ giết Tổ; gặp La-hán giết La-hán; gặp cha mẹ giết cha mẹ; gặp người thân giết người thân. Như thế mới được giải thoát, mới không bị câu thúc, mới thấu thoát, tự tại” (bài 19).

Đây là sự không y cứ, sự phá chấp bằng trí mà một Thiền giả phải thực hiện cho được để trở thành bậc Chân nhân không ngôi vị hay vị Đạo nhân không y cứ. Con đường tu phải lắm gian lao, không có một năng lực mạnh mẽ, một ý chí cương quyết trong một công phu hàm dưỡng lâu dài thì mọi lời khuyên dạy của chư Phật, chư Tổ chỉ là những ngôn từ trống rỗng!

Ghi chú: Những chỗ trích dẫn đều do người viết dịch từ nguyên bản chữ Hán

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2014(Xem: 11296)
Trong các kinh tạng, Phật nói nhiều về ‘tam thiên, đại thiên’ thế giới và đa số chúng ta thường hình dung rằng những thế giới này nằm bên ngoài trái đất, thế giới của các vị trời, thần… Vì chưa chứng được thần thông nên chúng tôi không thể nhìn thấy được những thiên giới đó! Nhưng thật ra nếu quán chiếu cho sâu, chúng ta sẽ thấy rằng có những thế giới không đâu xa mà chính ngay bên trong cõi ta bà, nơi mình đang sống.
25/10/2014(Xem: 21058)
Trong bất cứ một cộng đồng nào đều có nhiều tầng lớp khác nhau, nhiều chủng loại con người khác nhau sống cùng trong đó, thì chắc chắn luôn có sự hiện diện của nhiều mặt tư tưởng khác nhau, phát sinh nhiều vấn đề liên quan. Vì vậy để gìn giữ một cuộc sống yên bình cho một cộng đồng, con người phải có nhiều phương pháp để hòa giải mọi sự khác biệt. Xuyên suốt trong lịch sử của loài người, đã có rất nhiều lời đề xuất để giải quyết, thậm chí phải sử dụng đến phương sách bạo động, chẳng hạn như chiến tranh, xung đôt nhằm giải quyết sự khác biệt.
20/10/2014(Xem: 34226)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
23/09/2014(Xem: 6012)
Đa số người nghe, trong kinh Phật nói "xem thân như huyễn hóa", cho là tâm trạng bi quan, yếm thế. Trái lại, nhà Phật thấy thân như huyễn hóa là sức mạnh để làm lợi ích chúng sanh. Như nói "Bồ-tát lấy thân như huyễn, độ chúng hữu tình như huyễn", bởi Bồ-tát thấy thân hình không thật, nên sẵn sàng lăn xả vào làm việc lợi ích chúng sanh, dù gặp khó khăn nguy hiểm cũng không ngán sợ, vì thân như huyễn, có mất cũng không gì quan trọng. Thấy chúng hữu tình như huyễn, nên độ chúng sanh mà không chấp nhân, ngã. Thấy thân như huyễn, khiến người ta mạnh mẽ lên, không còn hãi sợ, trước vạn vật biến thiên mà tâm hồn mình vẫn an nhiên tự tại... Ta hãy nghe bài kệ của Thiền sư Vạn Hạnh:
18/08/2014(Xem: 59489)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
17/08/2014(Xem: 19530)
Tuy là những tích xưa, chuyện cổ, nhưng đối với người có óc quan sát sẽ rất là bổ ích, vì trong ấy chứa đựng những tư tưởng cao xa thâm thúy về triết lý đạo đức. Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn. Sau khi xem những chuyện tích được sưu tập trong phần này, hy vọng độc giả sẽ có thể dễ dàng thấy được những ý nghĩa đạo lý đã có tự ngàn xưa, được ghi lại qua những câu chuyện rất thú vị, làm cho chúng ta vui thích.
15/08/2014(Xem: 13134)
Tánh biết tham lam vật chất ,ích kỷ,vị tha,nhân quả,,ăn năn ,sám hối, thương yêu, ghét bỏ, sợ hãi, buồn tênh, v.v… của muôn loài hữu tình chúng sinh nói chung, con người nói riêng được hiển lộ ra ngoài thân ở lời nói và hành động trong đời sống hằng ngày.Tánh biết này,được các nhà ngôn ngữ cổ đại Trung Quốc gọi là Tâm.Từ đó cho đến nay người Trung Quốc và Việt Nam đều nói là tâm, một khi đề cập đến sự biết của các loài hữu tình chúng sinh,và con người.
02/08/2014(Xem: 8101)
Vào thời xa xưa các luận sư Phật học quan niệm rằng không gian (hư không) là một pháp vô vi. Quan điểm này còn lưu lại trong tác phẩm ĐẠI THỪA BÁCH PHÁP MINH MÔN LUẬN (Mahāyāna-śatadharmavidyā-dvāra-śāstra) do thầy Thế Thân (Vasubandhu) ở vào thế kỷ thứ IV (~316-396) biên soạn. Nhưng theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh thì Không gian không phải là một pháp vô vi bởi vì nó còn bị chi phối bởi thời gian, vật thể và tâm
10/06/2014(Xem: 6199)
(Tờ nguyệt san GEO là một tờ báo lâu đời của Pháp có chủ trương và nội dung rất gần với tờ nguyệt san nổi tiếng National Geographic của Hoa Kỳ; số báo 342, phát hành tháng 8 năm 2007, là một số đặc biệt dành cho Phật giáo với chủ đề “Đà phát triển mới của Phật giáo, trong số báo này có một bài phỏng vấn Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ký giả ghi chép: Andreas Hilmer. Hoang Phong lược dịch và ghi chú)
18/03/2014(Xem: 15251)
Phật dạy bậc đại nhân có tám điều giác ngộ. Điều thứ nhất, giác ngộ cuộc đời là vô thường, vũ trụ mênh mông tạm bợ. Gốc của bốn đại vốn không thật, trống rỗng nhưng nếu chúng ta không biết, chấp nó là thật thì sẽ dẫn đến đau khổ. Tập hợp năm ấm là vô ngã, sinh diệt thay đổi không ngừng, không thật và không có chủ thể. Tâm này là cội nguồn phát sinh điều ác, thân này là nơi tích tụ tội lỗi. Người hay quán chiếu được như thế dần dần sẽ thoát khỏi sanh tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]