Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Viễn Ly – Quyết Định Giải Thoát

14/02/201204:06(Xem: 3550)
Viễn Ly – Quyết Định Giải Thoát

anhnghethuat_baotoan (21)VIỄN LY – QUYẾT ĐỊNH GIẢI THOÁT
Alexander Berzin, Morelia, Mexico, October 10, 200
Tuệ Uyển chuyển ngữ - 27/1/2010

Lời người dịch:

Chúng tôi cho rằng, một người khi quyết định thực hành Đạo Phật thì trước hết là nghĩ đến viễn ly. Có phát tâm viễn ly mới thật sự là một hành giả Phật Giáo. Nếu không phát tâm viễn ly thì chúng ta thực hành Đạo Phật để làm gì? Dĩ nhiên ngày nay, người ta đã áp dụng những phương pháp thực hành của Đạo Phật trong tâm lý trị liệu, thiền quán để nâng cao sức khỏe, nhưng ngay cả việc thực tập Phật Pháp để được tái sinh trong cõi người lẫn cõi trời đều không phải là cứu kính của Phật Giáo, đó chỉ là những phương tiện nhất thời, hay đó không phải là Phật Pháp chân thật, không phải là mục tiêu tối hậu của Đạo Phật [1].

Vậy viễn ly là gì? Viễn ly hay tâm xuất ly có nghĩa là từ bỏ hay xa rời. Từ bỏ điều gì hay xa rời diều gì? Từ bỏ phiền não khổ đau hay xuất phiền não gia hoặc xa rời sinh tử luân hồi hay xuất tam giới gia.

Nếu chúng ta chỉ phát tâm viễn ly cho cá nhân mình thì gọi là thanh văn duyên giác và nếu chúng ta phát tâm viễn ly vì tất cả chúng sinh thì gọi là bồ tát đại thừa [và đi tiếp đến chỗ 'khứ lai tự tại']. Vì như Đức Đạt Lai Lạt Ma nói trong Mật thừa Tây Tạng rằng 'thoát ly sinh tử là mục tiêu chung của Đại thừa và Tiểu thừa. Nếu một người không muốn giải thoát thì không bao giờ muốn người khác giải thoát' và 'nếu một người không có tâm viễn ly chân thật thì không thể có lòng từ bi chân thành'. Vì sao, vì đối với một đạo nhân chân thật (hữu tình giác) thì không có gì trong cõi luân hồi có thể vướng bận họ, họa chăng những thứ làm vướng mắc được đó là những phiền não còn rơi rớt. Còn đối với một vị bồ tát thì còn có chi làm vướng bận họ, có chăng đó là bổn phận 'giác hữu tình' vì nếu không thì không phải là bồ tát.

Bài Viễn Ly - Quyết Tâm Giải Thoátcủa Giáo Sư Hành Giả Berzin nói chi tiết hơn về điều này.

Nam mô A Di Đà Phật
Ẩn Tâm Lộ ngày 13/01/2012
Tuệ Uyển

VIỄN LY – QUYẾT ĐỊNH GIẢI THOÁT

Định Nghĩa Và Hàm Ý

Viễn ly là một quyết định tự do khỏi không chỉ một hình thức nào đấy của khổ đau,mà cũng là khỏi nguyên nhân của nó. Nó đòi hỏi ý chí để từ bỏ khổ đau ấy và nguyên nhân của nó. Vì thế, nó đòi hỏi lòng can đảm to lớn. Nó không chỉ hướng đến nhận điều gì đấy dễ thương mà không phải trả một cái giá nào đấy.

Viễn ly cũng hàm ý niềm tin trong một sự kiện rằng nó có thể tự do khỏi khổ đau và nguyên nhân của nó. Nó không chỉ là suy nghĩ mong ước. Nó là niềm tin trong một sự kiện đúng trong toàn bộ ba phương diện.

1- Niềm tin tỉnh giác, xóa bỏ tâm thức của những cảm xúc và thái độ phiền não về những đối tượng. Vì thế, một sự viễn ly đúng đắn xóa tan tâm thức do dự, tự thương hại, và sự oán hận về việc phải từ bỏ điều tham muốn gì đấy.

2- Tin tưởng sự kiện chân thật căn cứ trên lý trí. Chúng ta cần thấu hiểu giải thoát khỏi khổ đau và nguyên nhân của nó là có thể như thế nào.

3- Tin tưởng sự kiện với một niềm ngưỡng mộ đối với nó. Như với hai tầng bậc của tâm bồ đề (niềm ngưỡng mộ và hai tầng bậc liên hệ), chúng ta không chỉ nguyện ước hay ý chí từ bỏ một cấp độ nào đấy của khổ đau và nguyên nhân của nó, căn cứ trên niềm tin rằng chúng ta có thể làm như thế. Chúng ta cần thật sự từ bỏ cả hai thứ, tối đa mà chúng ta có thể trong hiện tại, và để liên hệ chính mình trong những sự thực hành sẽ có thể làm cho chúng ta cuối cùng đạt đến sự tự tại khỏi chúng một cách vĩnh viễn.

Hơn thế nữa, viễn ly chân chính không giống như sự viễn ly hoàn toàn bị kích động bởi đời sống ngắn ngủi (sna-thung spu-sud-kyi nges-'byung): sự viễn ly say sưa và cuồng nhiệt đối với mọi thứ, nó căn cứ trên niềm tin mù quáng rằng nguồn gốc ngoại tại có thể cứu độ chúng ta. Nhưng nó đòi hỏi một thái độ thực tiển về sự liên hệ đến những việc làm cần mẫn. Chúng ta có thể đạt được sự nguyện ước từ những người khác, nhưng chúng ta phải thực hiện một cách kiên trì từ chính phía chúng ta.

Hơn thế nữa, chúng ta cần một thái độ thực tiển vể tiến trình xãy ra như thế nào. Hiện thực giải thoát khỏi vòng luân hồi không bao giờ là một tiến trình trơn tru như vạch một đường, với mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn mỗi ngày. Cho đến khi chúng ta tự tại vĩnh viễn, vòng luân hồi sẽ tiếp tục trồi lên sụp xuống. Khi nhìn từ một viễn tượng của thời gian lâu dài, chúng ta có thể thấy tiến trình , nhưng trên căn bản ngày qua ngày, tâm tính chúng ta sẽ tiếp tục lên đèo xuống ải.

Vì thế, chúng ta cần nguyên tắc và kiên trì để chịu đựng những khó khăn trong việc đi theo con đường tu tập của Đạo Phật, và trang bị tinh tấn (go-cha'i brtson-'grus), hoan hỉ nhẫn nại để vượt qua những lúc trồi hoặc sụp. Với niềm tin sáng suốt ủng hộ quyết định của chúng ta để được tự do, chúng ta sẽ không trở nên thất vọng hay mất tinh thần.

Hai Cấp Độ Viễn Ly Theo Tông Khách Ba

Trong Ba Phương Diện Chính Của Con Đường Giác Ngộ, Tông Khách Ba phân biệt:

1- Viễn ly giai đoạn khởi đầu mà với nó chúng ta hướng sự quan tâm chính yếu của chúng ta với việc làm lợi ích đời sống này để tạo nhân lợi ích cho đời sống tương lai (không để sa vào ba cõi địa ngục, ngã quỷ, súc sinh).

2- Viễn ly giai đoạn giữa mà với nó chúng ta hướng sự hấp dẫn chính yếu của chúng ta với việc tạo nhân lợi ích cho những đời sống tương lai để đạt đến việc giải thoát khỏi lập lại sự tái sinh không thể kiểm soát trong vòng sinh tử luân hồi.

Cấp độ thứ nhất là sự viễn ly phát triển thường lệ với những người không phải Phật tử, những người với khuynh hướng để lên thiên đàng. Cấp độ thứ hai là hoàn toàn của Đạo Phật.

Hiện Pháp Viễn Ly

Chúng ta có thể bổ sung sự phân biệt này bằng việc thêm vào cấp độ sơ bộ, “Hiện Pháp Viễn Ly”. “Hiện Pháp Viễn Ly” là việc hướng sự hấp dẫn chính yếu của chúng ta với việc tỉnh thức từng thời khắc để làm lợi ích cho những thời khắc tiếp theo đấy trong đời sống này hay những phát sinh sau đó.

Tuy thế, “Hiện Pháp Viễn Ly” chỉ có giá trị như một bộ phận của con đường Phật Giáo khi chúng ta nhìn nó chỉ đơn thuần như một viên đá đặt chân để tiến đến hai cấp độ thật sự của Phật Pháp. Để tiếp cận hai cấp độ thật sự, chúng ta cần thấu hiểu giáo huấn Phật Pháp về tái sinh một cách đúng đắn và tin tưởng chúng là thật sự, căn cứ trên lý trí. Bằng nếu không làm thế nào chúng ta có thể hành động một cách chân thành để làm lợi ích cho những đời sống tương lai hay để đạt đến giải thoát khỏi việc lập lại sự tái sinh không thể kiểm soát được?

Với Hiện Pháp viễn ly, sau đó, chúng ta nhìn vào những rắc rối hàng ngày chúng ta có trong đời sống - trong những mối liên hệ, trong việc đối phó với những khó khăn, v.v... Chúng ta cũng nhìn vào những nguyên nhân và chúng ta đang sẳn lòng từ bỏ cả hai, nhằm để cải thiện phẩm chất của cuộc sống này - và không chỉ ngay lập tức mà cũng là sau này trong cuộc sống. Đây là sự viễn ly trên một cấp độ thông thường với trị liệu tâm lý.

Song song với cấp độ này, chúng ta có thể có một kiểu mẫu Hiện Pháp viễn ly của việc đặt mình vào một phương hướng an toàn trong đời sống (sự quy y). Chúng ta đặt phương hướng an toàn trong đời sống của chúng ta của việc hành động để sống với chứng loạn thần kinh (vọng tưởng điên đảo) của chúng ta vì thể chúng chỉ có thể gây nên những rắc rối tối thiểu mà thôi. Chúng ta nhìn đến những ai những người đã đạt đến điều này, hoàn toàn hay cục bộ, như việc minh họa cung cách.

[See: "Dharma-Lite" Versus " The Real Thing" Dharma.]

Viễn Ly Tạm Thời Và Phương Hướng An Toàn(Quy Y)

Lamrim (Con đường tiệm tiến) trình bày chủ đề phương hướng an toàn hay quy y trước nhất trong dạng thức của giai đoạn viễn ly khởi đầu. Ở đấy, nó được căn cứ sự đe dọa của những sự tái sinh tệ hại và niềm tin trong sự kiện rằng Ba Ngôi Tôn Quý có thể đưa đến sự tái sinh tốt đẹp hơn. Giống như những kiểu mẫu của Hiện Pháp viễn ly, trình độ viễn ly này và sự quy y cũng chỉ là tạm thời. Chúng cũng không phải là những hình thức quyết định toàn hảo.

Pháp bảo thật sự là việc chấm dứt khổ đau và nguyên nhân của nó, và thật tâm đạo (con đường chân thật) hướng dẫn đến chỗ chấm dứt khổ đau. Tuy thế, trên trình độ khởi đầu, Pháp bảo không thật sự là Pháp bảo. Những khổ đau mà chúng ta muốn chấm dứt chỉ là khổ đau thô phù; nguyên nhân của nó chỉ là sự không tỉnh thức về hành trạng nhân quả; sự chấm dứt chỉ là tạm thời; và phương pháp là ngăn ngừa khỏi thái độ tàn phá.

Hơn thế nữa, những ai đã đạt đến điều gọi là Pháp bảo này là những người ở trong tình trạng tốt nhất của tái sinh - như cõi người và cõi trời, không phải chư Phật và không nhất thiết là cộng đồng thánh tăng nhị thừa, những bậc vô thức tính không.

Ý Nghĩa Viễn Ly Và Phương Hướng An Toàn(Quy Y)

Chỉ trên trình độ thứ hai (bậc trung) của con đường tiệm tiến lamrim chúng ta mới tìm thấy một sự định nghĩa đầy đủ của viễn ly và một sự định nghĩa trọn vẹn của phương hướng an toàn. Những đau khổ thật sự ở đây là tất cả ba loại (đau đớn, thay đổi, cùng khắp), nguyên nhân thật sự là việc không tỉnh giác về tính không, sự chấm dứt thật sự vĩnh viễn - không chỉ tạm thời nhưng tiến lên những trình độ tái sinh cao hơn hay thể trạng thiền định - và những con đường tâm thức thật sự là những tâm vô thức của tính không.

Một cách tương ứng, ở đây, chúng ta đặt ý nghĩa phương hướng an toàn trong đời sống chúng ta và hướng đến Pháp bảo thật sự của việc chấm dứt chân thật (diệt đế) và những con đường chân thật, khi hiện hữu trọn vẹn trên những sự tương tục tinh thần của chư Phật và tồn tại trên những sự tương tục của thánh giả tăng già.

[See: Identifying the Objects of Safe Direction (Refuge).]

Trình Độ Bồ Tát Của Viễn Ly Và Phương Hướng An Toàn

Trên trình độ thứ ba (bậc rốt ráo) của con đường tiệm tiến lamrim là động cơ bồ tát, những khuynh hướng viễn ly vì sự giải thoát của tất cả khỏi khổ đau luân hồi và nguyên nhân của nó - không chỉ khổ sở của đớn đau, và không chỉ khổ đau của một số chúng sinh nào đó. Nguyện ước này là cho tất chúng sinh khác hoàn toàn giải thoát khỏi khổ đau và nguyên nhân của nó, với lòng tin vững chắc rằng điều này là có thể, và điều này gọi là "từ bi". Từ bi là một khía cạnh của trình độ viễn ly của bồ tát.

Để mang đến khả năng để hổ trợ giải phóng tất cả chúng sinh khác, chúng ta cần những khía cạnh khác của viễn ly bồ tát. Chúng ta cần từ bỏ không chỉ những chướng ngại cảm xúc (phiền não chướng) ngăn trở sự giải thoát của chúng ta, nhưng cũng những chướng ngại nhận thức (sở tri chướng) ngăn ngại sự toàn tri. Xét cho cùng, điều này bao hàm sự thấu hiểu toàn tri toàn giác, những sự chướng ngại ngăn trở, và niềm tin vững vàng rằng có thể giải thoát chính chúng ta khỏi những chướng ngại này vĩnh viễn. Nó cùng bao hàm niềm tin vững vàng rằng tất cả mọi người có thể giải thoát chính mình mãi mãi khỏi những chướng ngại đó.

Kết Luận

Cùng với toàn bộ con đường Phật Giáo, rồi thì, chúng ta cần ý chí từ bỏ khổ đau và nguyên nhân của đau khổ. Do thế, chúng ta cần nhận ra những nguồn cội khổ đau của chúng ta, sự vị kỷ , giải đải, chấp trước, sân hận, v.v...; hãy từ bỏ chúng tối đa như chúng ta có thể ngay bây giờ; và cố gắng cố gắng sớm nhất như chúng ta có thể để giải thoát chính chúng ta khỏi chúng vĩnh viễn.

Trong mật tông tantra, chúng ta ngay cả cần sự viễn ly sâu xa hơn. Chúng ta cần ý chí từ bỏ và rồi thì buông bỏ, tối đa như có thể, những ý tưởng thông thường của chính mình (tự ngã ý tưởng) và sự đồng nhất của chúng ta với chúng. Viễn ly thực tế là một sự thực tập sâu sắc và vươn xa, từ Hiện Pháp đến tận cùng của mật tông tối thượng.

Nguyên tác: Renunciation - The Determination to Be Free
Ẩn Tâm Lộ ngày 12/01/2012
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level2_lamrim/intermediate_scope/renunciation_free.html?query=renunciation

Bài liên hệ:

1- Viễn ly - Quyết định giải thoát

2- Đi từ viễn ly đến từ bi

3- Giải thoát cho tất cả chúng sinh



[1]Phật giáo hướng đến mục đích giác ngộ, giải thoát - bình đẳng; chứ không phải chân thiện mỹ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/01/2017(Xem: 9878)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 28844)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15664)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 9944)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 7339)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 5340)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 13162)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 12958)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 17510)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 35650)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]