Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chữ Như trong Văn Học Dân Gian & Phật Giáo

13/03/201721:37(Xem: 5200)
Chữ Như trong Văn Học Dân Gian & Phật Giáo



hoa_sen (17)
CHỮ  NHƯ

TRONG  VĂN  HỌC  DÂN  GIAN  VÀ  PHẬT  GIÁO.

Đức Hạnh

 

Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của  các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo .

Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực.

Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ.

   Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngang như cua, v.v…

Danh từ Như Ảo. Cụm từ này, được chỉ cho những đồ vật có hình tướng trông như thật. Chẳng hạn những đồ chơi trẻ con : Búp bê, ông già Noel, người lính, mèo, chó, cọp, voi, chim muôn, máy bay, xe hơi, xe lửa, thuyền bè, v.v…, Tất cả đều cử động, phát ra tiếng còi, tiếng hát, lắc lư, mở và nhắm mắt, đi, chạy, nhảy, ngoắt đuôi…  Những hình ảnh Như ảo, giả tạo trên cũng được thấy trên đài truyền hình với tên hoạt họa.

Danh từ Như hóa. Với các bậc Tiên ông, đạo cốt, Thiên long ngoại đạo huyền bí. Họ cũng có thể biến hóa ra muôn vật có hình dáng hiện hữu tạm thời như thật nhưng, mờ mờ. Sau đó biến mất. Tất cả, do tư tưởng chăm chú đọc tụng thần chú hay thiền định ngoại đạo. Đến một lúc nào đó, họ có khả năng biến hóa và thần thông.

Như Ảo Tam Muội. Cụm từ này, được chỉ cho những bậc đạo sư Phật giáo, trong lúc tu thiền định, tâm an trú tĩnh lặng bậc trung, đã thấy những cảnh vật hiện ra. Đến lúc vào đại định, nhiều hiện tượng trùng trùng hiện ra như huyển, như ảo. Nhưng, quý ngài liền dập tắt ngay trong định, dù là những cảnh Thần tiên, Thiên đàng rất đẹp, cỏ cây, hoa lá, lâu đài trong sáng, êm đềm, v.v…Tất cả đều là cảnh Như Ảo Tam Muội.

Chữ NHƯ cũng được thấy ở những hiện tượng vừa mới hợp, đã vội tan : Như điển chớp, như  bọt nước, như sương mai trên ngọn cỏ, cành cây…

Chữ NHƯ ở lời xác định có tính cách mệnh lệnh, khuyên bảo, nhắn nhủ, than thở.  Chẳng hạn người kiến trúc sư đưa bản đồ xây nhà cho ông thầu xây cất và nói rằng; đây là mô hình photo, giống y hệt như bản chính. Vậy, ông hãy xây cất cho đúng như bản chính. Hay là lời người mẹ khuyên con : “ Con phải luôn có thái độ lễ phép với mọi người giống như anh con, như chị con đã từng đối đãi với mọi người”. Một vị Tăng giáo thọ, thường nhắn nhủ với các Phật tử : “ Người học Phật và tu tập giáo lý giống như người chèo thuyền trên dòng nước ngược, không tiến ắt phải lùi. Lời than thở : “ Hôm nay tôi mất mẹ như mất cả bầu trời”.

Chữ NHƯ ở lời phủ định. Ta thường nghe mọi người nói và viết lời phủ định: “ Tôi không làm như lời anh bảo. Bà ấy không tri hành theo như hành động của ông X. Những học sinh ngoan, không bao giờ bê tha như những đứa học kém. Một nhà báo nói rằng; thế kỷ 21, nhân loại bị tận thế, ông A nói  :“tôi không tin như vậy !”.

Chữ NHƯ ở bán tín, bán nghi.  Một ông nói chuyện gì đó…Ông kia trả lời : “ Ồ, hình như vậy ! Có lẽ như vậy ! Tôi tưởng như vậy ! Thấy gần giống như vậy, chứ không phải như vậy ! Đời người và mọi vật như ảo, như hóa, như mộng, như hình, như bóng ! Đồ giả bên hông chợ Lớn, lại nói như bên Hồng Kông !

Các nhà văn Việt Nam thường dùng chữ như trong các bài tả cảnh, tả hình dáng vật thể, con người, để  làm cho sáng tỏ bản thể hiện thực, gọi là nhân cách hóa. Chẳng hạn những câu văn có chữ như : “Chiều nay mặt hồ dưới bầu trời Thu có ráng chiều vàng, cùng với gió heo mây, làm cho mặt hồ chau động, gợn sóng lung linh giống như hằng vạn con rắn vàng đang bơi lội trong đó”.

Giữa ngọn đồi trong mùa đông giá rét, nhìn những bụi cây trụi lá, trơ cành, giống như những bộ xương cách trí, như được ai đem dựng trên đó”.

“ Một thiếu nữ phục sức toàn màu trắng, tóc xỏa chấm vai, ngồi lẻ loi bên gốc đại thọ, cuối mặt tư duy thầm lặng, qua từng giờ, làm cho tôi từ xa nhìn đến, tưởng như tượng đá công viên.

 “Trên bầu trời nắng hạ, không có mây, tôi thấy rõ một con diều hâu đang sải cánh, lượn quanh nhiều vòng, đầu nó luôn nhìn xuống như để tìm gà con. Rồi  lại cất cánh bay lên, vòng xuống chầm chậm, giống như chiếc máy bay  L 19, loại quan sát bay vòng tìm lối hạ cánh xuống phi đạo.

   Chữ Như vừa nói trên, là chữ Như của nhân loại đông, tây thường dùng trong ngôn ngữ thường nghiệm trong đời sống hằng ngày.

  Chữ NHƯ trong văn học Phật giáo.

 Tất cả vạn pháp trên vũ trụ này, về mặt hiện tượng thì vô vàn sai biệt hình thể, khó có thể tính lường được phẩm chất của chúng ra sao. Ta chỉ biết mọi bản thể của chúng không tự thể. Tất cả do các duyên giả hợp lại tạo nên, gọi là duyên sinh. Khi các duyên lần lượt ra đi theo định luật vô thường, thì bản thể con người và vạn pháp bị tan rả, trở về không. Với người phàm phu đều lầm tưởng mọi vật đều trường tồn do căn cứ vào biểu hiện bên ngoài mà phân biệt vật này với vật kia, là do lấy không làm thực. KHÔNG, chính là thực tướng của vạn pháp, là thực tướng của chư Phật. Đó là cái NHƯ của  thực tướng hay còn gọi là Như thật, Như thị. Có nghĩa là chỉ thẳng vào mọi bản thể hiện hữu (con người và vạn hữu), đều không tự thể, tất cả do các duyên giả kết tụ tạo nên bản thể rõ ràng như vậy. Sau đó bản thể bị chết non, chết già, là do các duyên bị hư hoại, thật đúng theo định luật vô thường! Do vì lẽ đó, mà Phật giáo không thể xác định mãi chữ Như ở sự tồn tại và không thể phủ định mãi chữ Như luôn hoại diệt. Nếu không nói, là lý trung đạo.

   Qua khế lý trên, cho ta thấy rằng chữ Như trong văn học Phật giáo vừa xác định, lại vừa phủ định. Xác định là khi nào những hiện tượng hiện hữu. Còn phủ định là do biết được những hiện tượng đang có mặt đó, không tự thể, tất cả do duyên khởi, nên chi đang trên đà hoại diệt.

   Về mặt bản thể của chư pháp, chữ Như là tính của chư pháp (pháp tính), nó là cái cùng cực của sự chân thực, thực tế, chư pháp thực tướng, nên gọi là Như Như bất động, tức là cùng một nghĩa đó là Như. Cho nên, mặc dù thế giới hiện tượng thật đa dạng bản chất, quy luật chỉ là một, đó là Như. Tất cả những lý giảng (tục đế) về chữ Như, chẳng qua cũng là một cái tên gọi khác về chữ Như. Tất cả đều chơn thật, nên gọi là chơn Như hay Nhất Như. Mặc dù là Nhất Như nhưng, Như có hai loại : Như của sự thật hiện hữu. Nếu không nói rằng, là nhân chứng bằng lời xác định về những dữ kiện nào đó là thật, do  hiện hữu vào thực tại. Điều này được thấy qua lời Tôn giả A Nan nói : “Như thị ngã văn nhất thời Phật tại Xá-Vệ quốc…” (Chính tôi nghe Như vầy, một thuở nọ Phật ở tại thành Xá Vệ…”. Và như của thực tướng, tức là thực tướng của các pháp là vô ngã.

     Một số chữ Như trong văn học Phật giáo sau đây : 1- Như vật thể hiện hữu. 2- Như thật tướng. 3- Như, là các tướng giống như pháp. 4- Như, là  tính của chư Pháp. 5- Cái lý chân thật, là Chơn Như. 6- Cái lý chỉ có một, gọi là Nhất Như. 7- KHÔNG, chính là thực tướng, đó là thực tướng của chư Phật, mới đích thực là Như.

   Với danh xưng Phật tử, là hành giả đi tìm cho mình con đường giải thoát sinh tử, bằng tu tập giáo lý của Phật, quý vị nên chọn chữ  Như nào trong bảy chữ Như nói trên, để làm hành trang giải thoát sinh tử ?

    Lời hỏi của người viết nói trên, được nghe một số Phật tử đã chọn “ Lý chân thật, là chân như”. Lý do chọn, vì đã hiểu được tánh của các pháp là thường tịch vắng lặng, không biến đổi. Thì người tu tập thiền định hay niệm Phật A Di Đà, đều phải sử dụng Phật tánh đang hiện hữu trong tâm để xa lìa mọi vọng nhiễm, dứt trừ mọi ý niệm về ngã, hoàn toàn an trú vào chánh niệm (đối cảnh vô tâm).

Một số khác, thì chọn “ Cái lý chỉ có một, gọi là Nhất như”. Lý do chọn, là vì đã hiểu được rằng; người tu Thiền hay Tịnh độ, cần nhất chỉ một tâm (nhất nguyên) không được hai tâm (nhị nguyên). Một tâm, đó là tâm Phật, gọi là chơn tâm, tâm Nhất như, cũng gọi là nhất tâm bất loạn, do không còn những ý niệm về ngã, (niệm, vô niệm).

  Sự chọn cho mình một chữ Như vào tâm của hai nhóm, đều đúng trên cơ sở khế lý, khế cơ. Tức là cả hai, đều cùng ngộ lý Chân tâm, Nhất như, vô ngã. Dù lời văn lý luận khác nhau một chút ở  2 chữ Như số 5, số 6 nhưng, vẫn cùng đi đến tâm Phật, là Chân tâm, Nhất Như, vô ngã (chia mhau phương tiện, gặp nhau cứu cánh Niết bàn), là hành trang giải thoát đích thực.

   

 Để được hiểu thêm về chữ Như có chứa đựng 10 thứ : Tướng, Tánh, Thể, Lực, Tác, Nhân, Duyên, Quả, Báo, Bản mạt.

1 Như Thị Tướng (Tướng như vậy)  2- Như Thị Tánh (Tánh như vậy)  3- Như Thị Thể (Thể như vậy) 4- Như Thị Lực (Lực như vậy) 5- Như  Thị Tác (Tác như vậy) 6- Như Thị Nhân (Nhân như vậy)  7- Như Thị Duyên (Duyên như vậy) 8- Như Thị Quả (Quả như vậy) 9- Như Thị Báo (Báo như vậy ) 10-  Như Thị Bản Mạt  Cứu Cánh Đẳng ( Bản mạt cứu cánh  đẳng như vậy).

    Chữ Như, trong ngôn ngữ Phật giáo, đó là thực tướng, là tính của chư pháp. Chữ Như đi với chữ Thị, nghĩa là như vậy, một danh từ để chỉ cho sự ân khả, đúng thực như Thánh giáo, pháp xứng hợp với đạo lý, lời thừa nhận đúng như vậy, lời khẳng định chắc thực, lời bày tở chơn thật về sự việc đã nghe, thấy chính xác, như lời Tôn giả A Nan nói : “ Chính tôi nghe như vầy…” ở phần đầu của mỗi bài kinh.

Như thị ở đây, được chỉ cho bản thể hữu tình chúng sanh và vạn hữu trên vũ trụ này, từ xưa nay là như vậy, dù cho có Phật ra đời hay không. Tướng của vạn hữu và mọi loài chúng sanh là như vậy; núi là núi, sông là sông, đá sỏi là đá sỏi, cây là cây, người là người, chim là chim, súc vật là súc vật, v.v…Sau khi các duyên hợp nhau tạo thành bản thể từ lúc nhỏ cho đến lớn, từ lúc non cho đến già rồi chết hư hoại bởi định luật vô thường.

Để được biết rõ vai trò của mười thứ : Tướng, Tánh, Thể, Lực, Tác, Nhân, Duyên, Quả, Báo, Bản trong bản thân chúng sanh và vận hữu xưa nay như vậy, ta điểm qua từng thứ  Như Thị (Như vậy).

    1-Tướng  Như Vậy (Như thị tướng).

Tướng, là tướng trạng bên ngoài của mọi vật và chúng sanh, được thấy rõ ràng, nó được biểu thị là cái vỏ, bao bọc, thùng, vại… Nhìn thấy tướng bên ngoài như thế nào, là biết những thứ bên trong của tướng, vì có liên đới mật thiết với tướng. 

    2- Tánh Như Vậy (Như thị tánh)

Tánh thuộc về bản chất không bao giờ thay đổi, (lãnh vực con người. Có thể được thay đổi bởi giáo lý Phật) nó chìm sâu trong bản thể vạn hữu khó mà thấy được. Trong mỗi bản thể vạn hữu và chúng sanh đếu có tánh riêng muôn đời không biến dịch. 

    3- Thể Như Vậy (Như thị thể).

Thể, là phần nhất định bất biến của vạn pháp, cho nên thể vô sai biệt, bất sinh bất diệt, gọi đó là đương thể, cần có một huệ nhãn mới thấy dược đương thể đó, cũng gọi là thể chất, là chủ thể, bản thể vạn pháp.

   4- Lực Như Vậy (Như thị lực).

Lực, là một tạp ngữ, chỉ về lực dụng, công năng tác dụng. Mỗi  bản thể vạn pháp và con người trên vũ trụ này đều có cái lực dụng riêng cho tự thể mình và chúng sinh. 

    5- Tác Như Vậy (Như thị tác).

Tác, là những sự việc, lời nói được hiển lộ ở động tác của tay chân và miệng của một con người đang hành động và nói năng (nghiệp) do từ tâm ý, thân, miệng phát sanh ra (tác).

    6- Nhân Như Vậy (Như thị nhân)

Nhân, (nghĩa đen hạt giống), những vật, các việc hữu tướng, vô tướng có năng lực làm nguyên nhân trực tiếp với sự việc, các vật để sau đó có kết quả.

      7-Duyên Như Vậy (Như thị duyên).

   Duyên, thật sự là những nhân duyên gián tiếp theo sau, là điều kiện giúp vào cho cái nguyên nhân trực tiếp đầu tiên được có kết quả tròn đầy, cho nên Nhân cũng chính là Duyên

    8- Quả Như Vậy (Như thị quả).

Quả, là sản phẩm hiện thực của ý nghĩ (nhất thiết duy tâm), lời nói và hành động, là nhân tố chính và những nhân tố phụ (duyên) hòa hợp nhau tạo tác (nghiệp) ra Quả.

   9- Báo Như Vậy(Như thị báo).

Báo, có nghĩa là báo ứng. Tức là những quả thiện, ác cũ của kiếp trước mà chúng sinh (con người) đã tạo ra không bao giờ bị mất, Cho nên sau khi chết, con người mang theo ở một kiếp sau hay nhiều kiếp sau ở quốc độ nào đó, được có bản thân ra sao, sự nghiệp sống được sung sướng, hạnh phúc, giàu sang (lạc quả) hay khổ đau, nghèo khó (khổ quả). 

   10- Bản Mạt Cứu Cánh Đẳng Như Vậy(Như thị bản mạt cứu cánh đẳng).

Bản, là gốc, đầu tiên, chỉ cho tướng trạng của vạn hữu ở đề tài “Như Thị Tướng số 1.”. Mạt, là ngọn, sau cùng, chỉ cho quả báo ứng ở đề tài “Thị Báo số 9” Cứu cánh đẳng, nghĩa là rốt ráo bình đẳng. Tức là Như thị số 10 này, là lời kết luận tổng thể vạn pháp từ TƯỚNG cho đến BÁO, trong và ngoài bản thể vạn pháp, chỉ là hiện hữu theo tương quan duyên khởi, không tự thể tức VÔ NGÃ. Nghĩa là, mọi bản thể vạn pháp, là do các nhân duyên giả hợp kết tụ phát sinh, cho nên đều KHÔNG. Chính cái Không ấy, là thực tướng đồng nhất của vạn pháp, thật rốt ráo và bình đẳng theo quy luật của nhân quả.

    Mười đạo lý Như Vậy (Như thị) được trình bày vừa rồi, chính là cái chìa khóa mở tung 9 cánh cửa bí mật của VẠN PHÁPCON NGƯỜI để thấy Phật hiện hữu trong đó.  Ở mỗi cõi Phật như vậy, trong mỗi một niệm, Phật ứng hiện vô số hóa thân nhiều như bụi để chuyển pháp luân”.

 

                                               

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2012(Xem: 5351)
Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới biết đến. Phật pháp được thực hành ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một nền văn hóa mới toàn cầu. Điều này thật thú vị và phấn khích. Và là những Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có một mặt khác của việc phát triển này. Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ. Tôi xin nói rõ nguy cơ này. Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trị và quan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi những khái niệm, sự nhận thức và niềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những người phương Tây thích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn
18/09/2012(Xem: 10555)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
06/09/2012(Xem: 3643)
Gần năm tháng nay, hắn đã sống hững hờ như một thây ma; mỗi ngày bắt đầu lại một mặt trời cũ, dâng lên trên những mái nhà một xác thối của mặt trời, ánh sáng của đèn cầy còn dễ thở hơn ánh sáng của mỗi ngày dư máu. Máu ứ đọng lại trong lòng mặt trăng của tư tưởng. Hắn thù ghét sanh từ, động từ “ý thức” và thù ghét cả tính từ “ý thức”.
25/08/2012(Xem: 7909)
Đây là bài nói chuyện của Tỳ Kheo Bodhi trong chương trình Google Techtalks vào ngày 3 /11/2010. Trong phần mở đầu, Tỳ Kheo Bodhi nói rằng Ngài biết anh bạn Quản lý chương trình Techtalks là người thích hài hước, nên Ngài phải chọn một nhan đề mang tính hài hước cho bài nói chuyện này là:“ Cần Có Hai Người Để Nhảy Điệu Tango ”,( vì Ngài e ngại bài nói chuyện của Ngài sẽ tẻ nhạt đối với thính giả). Nhưng nếu nói một cách nghiêm túc, thì đề tài của buổi nói chuyện này sẽ là: “Tương Lai Nhân Loại và Tương Lai Phật Giáo ”.
02/08/2012(Xem: 14238)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
19/07/2012(Xem: 10672)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
09/07/2012(Xem: 6190)
Giáo pháp về mười hai chi duyên khởi là chung cho tất cả các truyền thống Phật giáo. Tuy nhiên, sự diễn dịch về mười hai chi, những tiến trình của chúng, và đặc biệt sự giải thích về chi thứ nhất, vô minh, học phái Trung Quán giải thích có sai biệt nhiều hơn khi so sánh với các giải thích trong các học phái triết học khác.
15/06/2012(Xem: 5246)
Trong kinh điển Phật giáo , có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một sồ câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc hoặc thiếu thực tế . Đức Phật thấy rõ , những người đặt các câu hỏi như thế thì hoặc chính bản thân họ không hiểu , hoặc họ chỉ nhằm khoe khoang kiến thức qua những tưởng tượng hay ức đoán ; và nếu có trả lời thì tính hạn chế của ngôn ngữ cũng khiến mọi giải thích không thể diễn tả rốt ráo mọi điều thấy biết của Đức Phật . Vì thế mà Đức Phật chỉ im lặng .
05/06/2012(Xem: 28508)
Mới đây theo công trình nghiên cứu của giáo sư Eric Sharp thuộc Đại học Sydney, Australia, trong số những thánh nhân của thế kỷ thứ 20 này, có ba thánh nhân người châu Á. Đó là cố thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (1861-1941), Thánh Mahatma Gandhi (1869 - 1948) và một vị hiện sống là Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (1935-?). Vâng, Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay được nhiều nơi trên thế giới công nhận là một hóa thân Quan Âm và một bậc thầy tâm linh vĩ đại của nhân loại
31/05/2012(Xem: 6248)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567