Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Heidegger, Jaspers Và Bối Cảnh Phật Lão Trang

17/02/201104:13(Xem: 3118)
Heidegger, Jaspers Và Bối Cảnh Phật Lão Trang

HEIDEGGER, JASPERS VÀ BỐI CẢNH PHẬT LÃO TRANG,
Tam Ích

1.

Nói rằng triết học Âu Tây giỏi và bảnh rồi, cho nên kiêu căng biệt cư, không cần chiếu “camé” vào để “thâu” một ít vốn ở các hệ thống triết học Á Đông nữa thì thật là không đúng. Nói rằng triết học Á Đông có một số mặc cảm rồi cam phận đơn cư thì lại càng tuyệt đối không đúng lắm nữa.

Trái lại.

Triết học Âu Tây đến hết  duy trí đến Freud, đến Bergson là cần phải có lối thoát cho chính nó. Nó đã gặp khủng hoảng: tự nó nó không giải quyết được vấn đề căn bản là vấn đề con người, giữa lúc đó thì khoa học lại cũng không thể làm hơn cho chính con người. Trong các khoa học thì khoa vật lý toán học là đi lanh vun vút và lanh nhất: mà cũng chỉ vì nó đi lanh quá, cũng chỉ vì thuyết tương đối của Einstein và sự phát minh những yếu lý về nguyên tử lực lăm le đi cho tới… bản thể của vũ trụ vạn vật, nghĩa là đi cho tới cái mà trong những ngày tối tăm của lịch sử cổ Hy Lạp, Démocrite đã theo một định đề mà tìm ra nguyên tử mà đầu thế kỷ XX mới nảy ra cái tình thế chênh lệch giữa khoa học và luân lý tính của loài người (décalage entre la science et la morale) – như chúng tôi đã nói – gây ra một sự khủng hoảng nhân bản trầm trọng làm cho các tư tưởng gia thế giới mất ăn ngon ngủ yên; đồng thời nảy ra cái cảnh vật hoá (chosification) con người – lại cũng như chúng tôi đã đề cập; ấy là chưa nói sự khủng hoảng chỉ có ngày càng tăng chứ chẳng giảm một chút nào; vì nhịp lịch sử ngày nay nói dồn dập, chứ không lững thững như thời phong kiến chính thức xưa!

Triết học Âu Tây có chuyển hướng lớn, thật cũng chẳng phải chuyện lạ: ban đầu từ Kierkegaard, Nietzsche… rồi lại bắt đầu từ Husserl, Heidegger, Jaspers (thôi, khỏi nói Sartre!): tự triết học nó phải giải quyết cho chính nó và đồng thời cũng quy định tinh thần khoa học lý (esprit épistémologique) cho triết khoa học nói chung.

2.

Các triết gia Ây Tây hiện đại có quay qua tìm một ít vốn yếu lý trong các hệ thống triết học Á Đông Nho Phật Lão… - có Vương Dương Minh ở trỏng – cũng chẳng là chuyện phi lý. Họ không thiếu một Khổng Khâu và Mạnh Kha vì họ đã có Sartre và Platon… Vốn Khổng Mạnh, họ không cần vay, chỉ cần một mẩu Vương Dương Minh mà chính họ cũng có rồi! Họ không mượn… nhưng họ đối chiếu: số là thầy Mạnh vốn hưởng gia tài của thầy Tử Tư mà họ Vương lại hưởng lại gia tài của thầy Mạnh rồi hoá hợp cái gia tài ấy với cái phần duy-tâm-luận của Phật giáo: cái être của Aristote là gì nếu không phải là cái vị phát, cái étant là gì nếu không phải là cái dĩ phát, của hai thầy Tử Tư và Vương Dương Minh – và cái vị phát ấy nào có khác cái thực thể “non-manifesté” của bản thể học Âu tây cổ điển! Cái các thầy có, họ có – họ không cần mượn. Duy có Phật Lão Trang là có nhiều cái họ không có. Nên họ phải mượn! Họ chiếu “caméra” vào Thành duy thức, vào Thiền tông – nhất là Thiền. Karl Jaspers đã có lần nói rằng Phật giáo là một hệ thống chứa câu trả lời vĩ đại nhất về thân phận con người, và khả năng tri thức của triết học Âu Tây chỉ là một thực thể, có giới hạn – trước Phật giáo.

Nguyên văn câu nói ấy, anh Phạm Công Thiện có trích và ghi trong cuốn Hố thẳm của tư tưởngcủa ảnh, mà chúng tôi cũng đã được đọc trong cuốn Les grands philosophes của nhà xuất bản Plon bên Pháp. Mà việc Jaspers nói vậy cũng chẳng phải là việc lạ! Duy có một điều, ý của Jaspers làm cho chúng ta suy một ra trăm, trăm ra ngàn, để mà hiểu mọi lẽ trong trời đất, trong nhân sinh chung – Đông và Tây – có tương quan đến sự tiến hoá chung của chất trí thức của cả loài người…

3.

Dù cho có loanh quanh hay luẩn quẩn để đi vào mọi ngõ hay mọi ngách, chúng ta cũng nhận thấy chỉ có hai cách phát vấn đề – danh từ này là của Phan Văn Hùm, một người ngày nay chưa ai thay được – siêu hình học hay bản thể học – hai vấn đề này, tùy từng triết gia mà chung, hay mà riêng.

Hai mà thôi.

Phái uyên nguyên, hay siêu tại, hay tại ngoại (essentialisme hay là philosophie de la transcendance) thì cho rằng trước ngoài không thời gian vạn vật có một thực thể siêu hình mà mỗi một triết gia hay tôn giáo gia đặt cho một cái tên khác nhau; và nói về con người thì họ cho rằng con người có một bản chất tiên thiên có sẵn – đồng thời họ gán cho cái bản chất ấy một “tĩnh từ” thiện hay ác và con người làm thì gì làm… cũng theo cái bản chất có sẵn ấy, nghĩa là nô lệ cho nó. Cùng một lúc, họ giải quyết vấn đề nhân bản (humanisme) một cách giản dị: con người làm sao tu dưỡng cho đến cái trình độ người mẫu mà tiếng Pháp gọi là essence-type hay modéle-essence.

Còn phái thứ hai là phái nội tại – trong đó có các phái duy vật và hiện sinh – mà tiếng Pháp gọi là philosophie de l’immanence. Họ không đặt vấn đề siêu hình thuần tuý (métaphysique pure), không đặt vấn đề Thượng Đế và không đặt vấn đề thực thể uyên nguyên siêu hình. Có người như Heidegger thì lại trốn vấn đề, nghĩa là ông không đặt vấn đề Thượng Đế hay Uyên nguyên để cho khỏi phải gặp nó. (Thú vị quá! Chẳng biết nếu ông lỡ gặp, thì rồi mới tính sao!). Có những người như Sartre thì lại hơi nhát gan: ổng nói rằng, dù cho Thượng Đế rồi thì cũng vẫn có bao nhiêu vấn đề nhân sinh chứ chẳng phải là có, thì nhân sinh sẽ biến thành Non Bồng Nước Nhược! Kể thì Sartre cũng khá khôn ngoan đây! Rồi phải hiện sinh vô thần nói phứt: con người hiện hữu, rồi con người sẽ tự tạo bản chất sau.

Ấy thế rồi cả Heidegger, Jaspers, Sartre...., vô thần lẫn hữu thần, nói rằng cũng như cái bản chất của con dao là để cắt, của trái banh là để bay bổng, của bánh xe là để quay tít và của con người là để dùng tự do của mình mà tự tạo “bản chất” cho chính mình: đồng thời giá trị con người là ở thành tích (L’homme est la somme de ses actes) – một yếu lý sơ đẳng của thuyết hiện sinh. Nói một cách khác, nói về vấn đề uyên nguyên, họ làm một nhận xét, rồi từ nhận xét là con người hiện hữu họ dựng “hệ thống” triết học về con người sau. Nói một cách khác nữa, họ không đặt vấn đề siêu hình cổ điển. Họ loại hẳn nó đi: kẻ thì can đảm loại hẳn đi, kẻ thì nhát nhát một chút: để lại một con đường mòn, gặp biến cố cũng cố có lời mà trốn!

Còn như Phật giáo, Phật giáo cũng loại những vấn đề siêu hình thuần tuý và nhận xét rồi nói về đế thứ nhất trong bốn đế: Con người khổ. Như Heidegger sau này.

4.

Chẳng hạn là như Phật giáo. Phật giáo cũng nhận xét rằng con người hiện hữu (chẳng nói rõ thế thì cũng là thế) – rồi nhận xét rằng con người là khổ. Nghĩa là Phật giáo loại hẳn vấn đề siêu hình, loại không thương tiếc – ở tất cả mọi hình thức. Xin nói lại: ở tất cả mọi hình thức. Còn nói về sinh mệnh trong thời gian thì Phật giáo có hai yếu lý. Một là, nói về một cuộc đời tại thế mà thôi thì con người tạo nghiệp – cũng như Sartre nói l’homme est la somme de ses actes; hai là nói về dòng sinh mệnh trong thời gian được coi như là vĩnh cửu (eternité) thì con người trải qua luân hồi… Cái mà trong triết học hiện sinh gọi là sử tính (historicité), trong con người của Phật giáo, nó “có mặt”, nó “đánh dấu”, nó tham dự vào cái việc dựng con người trong một kiếp cũng như trong suốt cái dây luân hồi ấy!

Và, cái bế tắc của triết học Âu Tây của Husserl, của Sartre và cái “khai thông” của triết học Phật giáo nó quay xung quanh cái vấn đề then chốt ấy.

5.

Phật giáo khá phong phú cho nên Phật giáo có một lối thoát về triết học rất chỉnh. Heidegger và Sartre vì “khoa học” quá mà bế tắc!

Phật giáo có bốn đế. Đế thứ nhất là đế khổ. Cái khổ toàn diện và khổ chung! Phật giáo vẽ cái khổnhư vẽ một bức tranh, như một cái vạn hoa kính của một cái vạn hoa kính. Vạn nhân với vạn, vạn của vạn của vạn cái khổ lớn nhỏ trong nhân sinh. Chỉ nói: sinh, lão, bệnh, tử… rồi nói thêm: cái gì có mà mất là gây ra khổ, cái gì đương gần mà phải xa đã gây ra khổ, cái gì đương hiệp mà tan là gây ra khổ v.v… Nói thế rồi tự con người dùng thông minh mà hiểu, dùng kinh nghiệm mà sống, dùng trực giác mà linh hồn là đủ hết, đủ hết. Chính những cái khổ muôn mặt, muôn muôn mặt ấy, nó ngăn con đường hạnh phúc, ngăn con đường hướng thượng của con người. Và muốn sướng, phải thoát khổ và thoát nghiệp.

Giữa lúc đó thì Heidegger lại cũng nói về một thứ “đế” của Heidegger: cái mà Heidegger gọi là “existentiaux”. Đối với Heidegger, thì con người khổ một cách thiết yếu (nécessairement malheureux), vì bản chất của con người là có hạn(esentiellement fini). Nói một cách khác, Heidegger gọi con người là ý thức hữu hạn (conscience fini) – và cái yếu lý ấy là trực giác căn bản (intuition centrale) của cả cái “hệ thống” của Heidegger! Vậy chứ “đế” của Heidegger gồm có bao? Phật giáo thì nói sinh, lão, bệnh, tử – nghiệp – luân hồi – hành trình phải dài lắm; trong lúc đó thì Heidegger nói về “đế” của Heidegger như thế này: một là sự cô đơn mà ông gọi là déréliction, nghĩa là tình thế con người tại thế (être-au-monde) bị bỏ rơi giữa đời sống hữu hạn; hai là cái chết – cái chết giống cái tử của Phật giáo, chỉ có khác ở chỗ là cái chết của Phật giáo chỉ là một “giai đoạn” dẫn con người đi xong một “vòng” trong cái vô cùng của luân hồi, trừ phi là ngộ, giác; ba là sự hữu hạn về thời gian của con người mà Heidegger gọi là temporalité.Ngoài ra, Heidegger còn nói tới sự tự do(liberté)– cái tự do đó giúp cho con người sống tự thực hiện một cách bản thể (s’accomplir ontologiquement). Thực ra, cái tự do ấy, cũng chẳng giúp gì cho con người nhiều lắm, bởi vì bên kia sự tự do (au-delà de la liberté) là hết, hư vô, hố thẳm tối tăm… của hiện hữu thuần phác (existence brute), và không còn vấn đề gì nữa mà đặt!

Rồi Heidegger thở than như ai cũng đã thấy!

6.

Và cái mà Heidegger gọi là “existentiaux”, Karl Jaspers gọi là giới cảnh, tiếng Pháp gọi là situations limites – cũng như nhà Phật nói sinh lão bệnh tử - mà cái giới cảnh căn bản là lúc nào con người cũng vướng trong hoàn cảnh (être en situation). Nói một cách khác, Karl Jaspers muốn nói về cái chết (la mort), sự đau thương (la souffrance), sự tranh đấu (le combat) của con người, ngăn đường hướng thượng (?), ngăn đường hạnh phúc của con người.

Thực ra thì, nói về đế một, nhà Phật chỉ nói một yếu lý ngắn, mà đủ hết. Riêng Heidegger và Jaspers thì lại nói những “existentiaux” và “situation-limites” đếm được bằng tính cộng. Nói cho đúng, con người bắt đầu sống là đã gặp ngay giới cảnh rồi vậy! Từ cái nhỏ nhất là một con muỗi cắn gây sốt rét rừng cho con người, cho đến cái lớn nhất là thế chiến đệ nhất, đệ nhị tàn sát hết nhân sinh chẳng hạn. Chẳng riêng gì bấy nhiêu “existentiaux” và bấy nhiêu “situation limites”! Nói một cách khác: mở mắt ra, nhắm mắt lại – cứ một sát na con người đã gặp giới cảnh rồi vậy thay.

7.

Chúng ta đã thấy rõ, triết học của Heidegger, của Sartre, của Jaspers (Jaspers thì ít) hay nói tới sự thất bại (écbec) sự hữu hạn (finitude) chỉ vì, nói tóm lại, triết học hiện đại của họ, chỉ vì muốn “khoa học”, mà coi đời sống con người cá nhân chỉ có một kiếp – một thôi – là xong! Vậy chứ một kiếp thì còn làm cái gì nữa kia!

Trái lại, Phật giáo thì nói đời sống con người là một sự tu dưỡng liên tục – cho đến ngộ, đến giác qua bao nhiêu cái lóng của dây luân hồi Cho nên triết học Phật giáo có lối thoát – kể cả Lão Trang. Nói rộng ra, triết học Âu Mỹ hiện đại, nếu có bế tắc về nhân bản là cũng tại các phái hiện sinh vô thần phân tích xong thì ngưng lại. Thật ra, không đặt vấn đề siêu hình học, hay có đặt vấn đề bản thể mà lại cho nó một nghĩa khác, thì cũng khó mà đặt vấn đề luân lý.

Trừ Karl Jaspers!

8.

Chính vì vậy, mà Heidegger chẳng hạn chống Hegel, họ lại không làm được như Hegel: thì theo Hegel thì tất cả mọi quá trình biện chứng xong rồi thì một ngày kia, ý tưởng tuyệt đối (idée absolue) sẽ gặp Lý tính phổ biến (Raison Universelle) và lúc đó sẽ đồng nhất (identification): sẽ không có nhị nguyên tính của mọi “vật” – tức là việc của Vương Dương Minh. Nói một cách khác, nói về con người, khi mà cái en-soi-pour-soi của Hegel thực hiện, cuối đoạn đường biện chứng!

Và khi cõi “đắc nhất” của Lão Trang và cõi “bất nhị” (tôi dùng ép chữ cõi ) của Phật giáo Thiền tông thực hiện thì biên giới giữa chủ, khách – phải, quấy – trong, ngoài – xấu, tốt - sẽ xóa vậy.

Và những “cái” nhân hiện hữu (dasein), hiện hữu thuần phục (sciendes) và ý hiện hữu (sein) của Heidegger sẽ hoà tan làm một: cái thuần bản thể (ontique) và cái nhân bản thể (ontologique) sẽ mất biên giới; cái tự tại (en-soi) và cái ý thức (pour-soi); của Sartre sẽ hoá nhất (identification); vũ trụ loạn giới (monde comme chaos)vũ trụ thuần vô cùng (monde comme cosmos) của Heidegger lại cũng hoà đồng.

Nói như thế bởi vì theo Jean Paul Satre thì cái vật thể tự tại (en-soi) và cái ý thức (pour-soi) không bao giờ ăn khớp với nhau được!

Thực ra là có!

Tôi xin phép kể một chuyện giai thoại: Ngày xa xưa kia, ngài Ca Diếp, một hôm, bảo ngài Anan phải tu dưỡng một đêm cho chứng quả để ngày hôm sau ra hội nghị các chư tăng cao cấp và “thuyết trình”. Sáng hôm sau, sau khi đã tu chứng quả, ngài Anan đến phòng ngài Ca Diếp, xin vào để trình sự chứng quả. Vì cửa phòng đóng cho nên ngài Ca Diếp, bảo ngài Anan là cứ vào: Vì đã chứng quả rồi thì cứ vào – chui qua khe cửa mà vào chẳng hạn.

Ngài Anan có chui qua khe cửa mà vào không, riêng kẻ viết bài này, vì học thiếu, nêu không rõ. Nhưng có bạn đọc sẽ hỏi: đó là chuyện phi lý.

Thực ra, nghĩ đến cực vi và cực diệu, thì đó không phải là huyền thoại, mà là chuyện có. Câu chuyện đó, nó như một tượng trưng và chứa một số luận cứ. Ngài Anan đã chứng quả rồi, thì đã đến cảnh giới Bất nhị, đến cảnh giới Đắc nhất, đến cảnh giới Nhứt rồi. Không có nhị nguyên tính nữa, không có chủ khách , không có trên dưới, không có trong ngoài phải quấy, trước sau… nữa. Đối với người đã chứng quả thì không có vấn đề vào hay ra, trong hay ngoài!

Vật lý toán học đã làm những bài toán họcđể đi đến cái điểm nói rằng nếu đem xếp với nhau các trung hoà tử dương tử của Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn lại thì Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn sẽ còn nhỏ như hòn bi mà vẫn cái nặng đủ ba trăm ngàn tấn như thường. Tại sao triết học lại không giúp con người thể nghiệm tâm linh được chuyện: chui qua khe cửa vì không có trong và ngoài nữa, của ngài Anan?

Giữa hai chuyện, chuyện Nhà thờ Đức Bà không phải là huyền thoại, thì chuyện ngài Anan sao lại là huyền thoại? (Toàn là chuyện khả niệm chứ không phải là chuyện khả giác! ).

Khốn một nỗi, chúng ta hiện đương sống trong cõi khả giác mà thôi! Tuy nhiên, dùng lý tính mà suy, en soi sẽ gặp pour soi; Dasein, Seiendes Sein của Heidegger sẽ hoà; ontique ontologique sẽ đồng nhất như đã nói ở trên. Chẳng thể chối cãi được!

9.

Nói cho đúng ra, mỗi một triết gia Âu Tây hiện đại đều có con đường cho con người tu dưỡng – để làm cái việc mà riêng Phật giáo gọi là giải thoát – mà các triết gia ấy gọi là sống tại đời sống tại thế sống cái thân phận của mình. Phật giáo có bát chánh đạo – còn các triết gia hiện sinh nói gọn lỏn là vượt (dépassement) và nhận cái thân phận trong đời chân nhân sinh, tiếng Pháp gọi là assumer sa condition d’homme, của một chân hiện hữu (existence authentique).

Nhưng Karl Jaspers thì còn có hướng – Heidegger thì lại bế tắc!

Thực ra, Phật giáo cũng không bảo là lên một cõi xa xôi vun vút nào mà tu dưỡng – con người có thể tu dưỡng ngay trong đời sống theo yếu lý bất ly thế gian giác – và theo đường quán cái thức, biến thức thành trí. thức trí còn mê, trí thức đã giác.

Heidegger thì cố nhiên là “khép”: chỉ riêng có Karl Jaspers là nghĩ tới ba cảnh giới của hiện hữu: cảnh giới thứ nhất là giới nghiệm hiện hữu (être empirique hay dasein); cảnh giới thứ hai là nhân hữu (être de l’homme hay là existenz); cảnh giới thứ ba là tự tại giới (être en soi hay transcendance) là cảnh giới cao nhất, siêu nhất mà Jaspers cũng gọi là tuyệt đối, tha hữu viết hoa (L’Autre) và bên kia là hư vô tuyệt đối (Xin hiểu cho rằng các danh từ Dasein, Sein, être, en soi… mỗi một triết gia dùng và gán cho chúng nghĩa mà họ muốn).

Phật giáo khác: bên kia còn có các kiếptrong luân hồi đầu xa xôi là bến giác. Đến bến giácmới hết: và giữa hiện hữu giác có tất cả mọi thực thể bản thể (entité ontologique) mà con người có thể dùng lăng kính khoa học mà lãnh hội – nhưng đó lại là một việc khác.

10.

Thì ra, trên vấn đề nhân bản thuần chất – nếu có thể nói thế – Heidegger và Sartre chỉ có một cái công là đã phản ứng chung các hệ thống cổ điển Âu Tây – nhất là Hegel – nhất là hai phái duy tâm duy thực thôi! Vậy thôi! Chớ vấn đề đặt ra, nó vẫn nằm chình ình! Họ muốn lay chuyển cả gốc Thiên Chúa giáo – là lẽ cố nhiên: nhưng Thiên Chúa giáo đã có Karl Jaspers chèo chống cho tất cả trong những cơn sóng gió, - để đi con đường đã vạch.

11.

Giữa cái thời đại mà hình ảnh một cuộc tự sát chung của cả loài người hiện ra – như một cây kiếm Damoclès, chỉ có khác là về kiếm Damoclès, huyền sử không nói nó có rơi xuống đầu không, chứ bụi nguyên tử thì thật là rất khó tránh, giữa cái thời đại ấy, triết học Âu Tây thường đặt vấn đề quay về Phật Lão Trang. Người có đầu thì vào thư viện, người trẻ thì tập thamthiền.

Heidegger trước kia định mượn vốn Phật Lão.

Phật giáo có tứ diệu đế – tức là bốn đế mới trọn, mới vẹn. Husserl chỉ mượn có một “đế” thứ nhất, mà lại còn sót.

Bế tắc là phải!

Kể cả Jean Paul Sartre!

Cũng chẳng lạ!

Nguồn: Tạp chí Văn, Nghiên cứu và Phê bình văn học, năm thứ nhất, đệ tam tam cá nguyệt 1967, tập 3, trích từ trang 22 đến trang 32. Chi phiếu, bưu phiếu đề tên ông Nguyễn Đình Vượng. Thư từ, bản thảo, ấn phẩm đề tên ông Trần Phong Giao. Giao thiệp trực tiếp về mọi việc xin hỏi ông Gia Tuấn. Số 38, Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn. Điện thoại: 23.595. K.D. số 1194 ngày 26-6-1967. Giá 30 đồng. Bản điện tử do talawas thực hiện.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 12058)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14925)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
22/08/2021(Xem: 3444)
Đây là bài thứ 4 và cũng là bài sau cùng trích dẫn một số câu liên quan đến giáo lý của Đức Phật. Bài 4 này gồm tất cả 80 câu được chọn lọc từ một bài gồm 265 câu trên một trang mạng tiếng Pháp : https://www.evolution-101.com/citations-de-bouddha/. Các câu này chủ yếu được rút tỉa từ kinh Dhammapada (Kinh Pháp Cú) và các kinh trong phẩm thứ tư của Tam Tạng Kinh là Anguttara Nikaya (Tăng chi hay Tăng nhất bộ kinh)
24/06/2021(Xem: 4173)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 16503)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12477)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7762)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19937)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11596)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9071)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567