Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô Môn Quan

04/09/201017:49(Xem: 8943)
Vô Môn Quan


vo mon quan


Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn, nhà nghiên cứu và giảng dạy Phật học đã viết: « Chúng tôi là kẻ hậu học, tuy kiến thức chữ nghĩa và thực lực hành trì chẳng bao nhiêu, cũng đem hết sức mình dịch cuốn Vô Môn Quan này ra Việt ngữ, gọi là để đóng góp vào công cuộc chấn hưng Thiền học hiện nay. »



   Một thời xa xưa, tại pháp đường của các Thiền viện, người ta nghe sang sảng những tiếng cười và tiếng hét. Bao nhiêu lời lẽ luận bàn khúc chiết được gởi trả về cho dải sa mạc trên miền Cao Á, nơi đã từng ghi dấu cuộc hành trình khổ nhọc của những tâm hồnkhát khao tuyệt đối. Nơi đây, sa mạc vẫn cứ thiên thu cô tịch trong cơn gió bức bách của hư vô. Lẽ sống và lẽ chết vẫn mãi bồng bềnh trong hư ảo. Tâm hồn miệt mài nóng cháy, nhưng không cháy tan nổi những giấc mộng hãi hùng của hư vô và hủy diệt. Rồi một mai, khi thời cơ đến, tiếng cười và tiếng hét trỗi lên làm đảo lộn cả nếp sống bình sinh.

Cuộc sống bình thường của chúng ta chẳng mấy khi nghe được những tiếng ấy trong cơn sửng sốt bàng hoàng; để cho, trong thiên tải nhất thì, một lần chết đi và một lần sống lại trước sự thật nghìn đời. Những khát khao nồng nhiệt cứ vĩnh viễn mỏi mòn; tâm trí càng lúc càng bất động như sỏi đá.Biết bao thành kiến dần dần đông lại thành lớp vỏ cứng của bản ngã, không cách gì phá vỡ.

Bởi vậy, chúng ta có thói quen đến với các tác phẩm Thiền như săn đuổi một thứ hương hoa kỳ lạ nào đó để trang điểm thêm một chút văn vẻ cho đời sống vốn dĩ đã nhạt phèo này. Thói quen đã khiến cho chúng ta sơn phết cho Thiền vô số tạp sắc: nghệ thuật, văn chương, triết lý và vân vân…

“Phải đến với Thiền như thế nào?”Chúng ta quen hỏi như vậy. Bởi vì đời sống đang chìm đắm trong bùn lầy hôi thối của những cảm thức phù phiếm; chúng ta như những con sâu, triền miên ngủ suốt một mùa băng giá. Ngôn ngữ Thiền, dù có là sấm chớp bão bùng, trong tai ta, chẳng qua chỉ là “ve sầu kêu ve ve suốt mùa hè nóng bức.”

Làm sao chúng ta có thể gộp tất cả gió bồn phương trời sa mạc mà động vào đôi cánh cửa của quan ải Thiền? Có lẽ, cũng nên một lần, với đói khát, với nóng lạnh, nghênh ngang bước vào giữa những tiếng cười rổn rảng, băng qua biên giới không ngần của sa mạc. Rồi sẽ thấy như người xưa từng nói, Thiền là một quan ải hiểm nghèo, không cửa, thách thức bước tiến của tâm linh. Vậy đã nhất quyết bước tới, sấn cho đến tận cửa, chúng ta vẫn cố thẳng lưng mà vượt qua.

 

Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn, nhà nghiên cứu và giảng dạy Phật học đã viết:  « Chúng tôi là kẻ hậu học, tuy kiến thức chữ nghĩa và thực lực hành trì chẳng bao nhiêu, cũng đem hết sức mình dịch cuốn Vô Môn Quan này ra Việt ngữ, gọi là để đóng góp vào công cuộc chấn hưng Thiền học hiện nay. »



Mục lục.

Giới thiệu về tác giả

Vô Môn Huệ Khai 1183-1260, là một vị Thiền sư Trung Quốc thuộc hệ phái Dương Kì tông Lâm Tế, nối pháp Thiền sư Nguyệt Lâm Sư Quán. Sư là vị Thiền sư nổi danh nhất thời, đến bây giờ vẫn còn được nhắc đến qua tập công án Vô môn quan này. Sử sách ghi lại rằng: “Vào khoảng cuối đời Tống. Ngài Vô Môn đến tham học Thiền sư Lâm Nguyệt tại chùa Vạn Thọ. Nguyệt Lâm là môn sinh đời thứ 8 của Dương Kỳ, thuộc dòng Lâm Tế. Ngài được Nguyệt Lâm cho tham chữ Vô. Qua sáu năm công phu vẫn chưa khai thông được, ngài phẫn chí, thề quyết không ngủ cho đến khi nào vỡ lẽ mới thôi. Sau vì quá buồn ngủ, ngài đi lững thững ngoài hành lang, mệt mỏi tựa đầu vào một cây cột, bỗng nghe tiếng trống ngọ đánh, bất giác lĩnh ngộ. Ngài mừng quá, chạy đến tìm Nguyệt Lâm, toan trình điều sở ngộ. Nguyệt Lâm vừa trông thấy vụt hỏi: “Chạy đi đâu mà như ma đuổi vậy?” Ngài liền quát một tiếng. Nguyệt Lâm cũng quát một tiếng. Hai bên cùng ứng đáp như thế. Sau đó ngài ứng khẩu đọc bài kệ rằng:

Vô Vô Vô Vô Vô

Vô Vô Vô Vô Vô

Vô Vô Vô Vô Vô

Vô Vô Vô Vô Vô

Trích đoạn sách hay:

“...BÀI THỨ HAI MƯƠI BA

KHÔNG NGHĨ THIỆN ÁC

* Công án:

Lục Tổ (74) bị Thượng tọa Huệ Minh (75) đuổi theo đến núi Đại Diễu Lĩnh. Tổ thấy Huệ Minh đến, liền quẳng y bát trên tảng đá mà nói:

- Áo này vốn để làm tin, há tranh đoạt được ư? Ông cứ việc lấy đi.

Huệ Minh toan lấy áo lên, thấy nặng trịch như núi, tần ngần run sợ nói:

- Tôi đến cầu Pháp, chẳng phải vì áo. Xin hành giả (76) khai thị (77) cho.

Tổ nói:

- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác. Ngay lúc ấy thì mặt mũi xưa nay của Thượng tọa Huệ Minh là gì?

Huệ Minh liền ngộ, khắp mình đãm mồ hôi, khóc lóc sụp lạy nói:

- Ngoài mật ý, mật ngữ đó ra. Ngài còn truyền thọ ý chỉ gì nữa chăng?

Tổ nói:

- Điều tôi nói với ông đây không có chỉ là mật. Nếu ông tự quay nhìn mặt mũi chính mình, thì bí mật chính là ở phía bên ông.

Huệ Minh thưa:

- Tôi tuy ở Tăng chúng học ngài Hoàng Mai (78) thực chưa từng xét kỹ mặt mũi mình. Nay đội ơn ngài trỏ cho lối vào, như người uống nước, nóng lạnh tự hay. Giờ đây ngài là thầy tôi vậy.

Tổ nói:

- Nếu được như thế, tất tôi cùng ông đều là học trò của Hoàng Mai. Nên tự giữ gìn cho khéo.

* Lời bàn:

Có thể nói Lục Tổ vì việc nhà quá gấp. Lão bà cưng con cháu, như trái vải đầu mùa, lột vỏ, lột hột nhét vô miệng cho, chỉ việc nuốt một cái là xong.

* Kệ tụng:

Vẽ không ra chữ, tả không được,

Khen chẳng đến chừ, đành phải thôi.

Mặt mũi xưa nay không chỗ giấu,

Dù tan thế giới vẫn không phai.

BÀI THỨ HAI MƯƠI BỐN

LÌA KHỎI NÓI NĂNG

* Công án:

Một ông Tăng hỏi ngài Phong Huyệt (79):

- Nói hay im lặng đều là vặt vãnh, làm sao khỏi vướng mắc?

Sư đáp:

- Giang Nam nhớ mãi ngày xuân ấm,

Hoa lừng trong chốn chá cô (80) kêu.

* Lời bàn:

Thiền cơ của Phong Huyệt như ánh chớp, gặp đường là đi, ngặt lại không phá được khuôn sáo của người xưa.Nếu chỗ này mà thấy cho xác triết thì vạch được lối đi cho mình. Bay giờ thử rời bỏ ngôn ngữ tam muội (81), hãy đáp một câu xem!

* Kệ tụng:

Câu kia còn nguyên vẹn,

Chưa thốt đã trao lời.

Chân đi, mồm lẩm nhẩm,

Biết ông kẹt lắm rồi.

BÀI THỨ HAI MƯƠI LĂM

TÒA THỨ BA NÓI PHÁP

* Công án:

Hòa thượng Ngưỡng Sơn (82) nằm mơ thấy đến chỗ Phật Di-lặc, ngồi tòa thứ ba. Có một tôn giả bạch chùy thưa:

- Hôm nay đến phiên tòa thứ ba thuyết Pháp.

Sư liền đứng dậy bạch chùy nói:

- Pháp Ma-ha-diễn (83) rời bốn câu lý luận, dứt hết trăm cách phủ nhận (84). Nghe cho kỹ, nghe cho kỹ.

* Lời bàn:

Thử hỏi đó là nói pháp hay không nói pháp? Mở miệng là sai, ngậm miệng là mất. Không mở không ngậm, mười vạn tám ngàn.

* Kệ tụng:

Ban ngày ban mặt,

Trong mộng nói mơ.

Nghĩ bậy, nghĩ bậy,

Lừa bác gạt cô.

BÀI THỨ HAI MƯƠISÁU

HAI TĂNG CUỐN RÈM

* Công án:

Trước giờ trai, các học tăng đến tham hỏi ngài Đại Pháp Nhãn (85) ở chùa Thanh Lương. Sư giơ tay trở bức rèm. Bấy giờ có hai ông Tăng cùng ra cuốn rèm.

Sư nói:

- Một được, một mất.

* Lời bàn:

Thử hỏi ai được ai mất?Nếu thấy được chỗ này thì thấy được chỗ lải nhải của Quốc Sư Thanh Lương. Tuy vậy, kỵ nhất là việc so đo chỗ được mất.

* Kệ tụng:

Rèm cuốn trông vời chốn thái không,

Thái không vẫn chửa hợp nguồn tông.

Chi bằng gạt hết từ nơi ấy,

Một mạch liền liền gió chẳng thông.

BÀI THỨ HAI MƯƠI BẢY

KHÔNG PHẢI TÂM KHÔNG PHẢI PHẬT

* Công án:

Một ông Tăng hỏi Hòa thượng Nam Tuyền:

- Có pháp nào chưa dạy nữa không?

Sư đáp:

- Có

Ông Tăng lại hỏi:

- Pháp chưa dạy là pháp gì vậy?

Sư nói:

- Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật.

* Lời bàn:

Nam Tuyền bị hỏi một câu như thế, phải dốc hết vốn liếng, thiệt là lận đận.

* Kệ tụng:

Dặn kỹ làm mất đức,

Không lời mới có công.

Dù cho dâu bể đổi,

Đành quyết chẳng khai thông.

BÀI THỨ HAI MƯƠI TÁM

CÂY ĐUỐC CỦA LONG ĐÀM.

* Công án:

Ngài Đức Sơn tham hỏi ngài Long Đàm (86) cho đến tối. Sư nói:

- Đã khuya, sao ông chưa về đi?

Đức Sơn vái chào, vén rèm mà ra, thấy ngoài trời tối đen liền quay trở vào thưa:

- Bên ngoài trời tối quá!

Sư thắp một cây đuốc giấy trao cho.Đức Sươn toan cầm lấy, Sư liền thổi tắt mất.Đức Sơn tỉnh ngộ, sụp lạy.

Sư nói:

- Ông thấy được ý nghĩa chi?

Đức Sơn đáp:

- Tôi từ nay trở đi hết nghi hoặc những lời dạy của chư Hòa thượng trong thiên hạ.

Hôm sau Sư thăng đường nói:

- Trong đây có kẻ răng như rừng gươm, miệng như chậu máu, bị đánh một hèo mà chẳng quay đầu lại, mai kia mốt nọ leo lên đỉnh cao dựng đạo của ta.

Đức Sơn bèn đem mấy bộ sớ sao (87) đến trước pháp đường, cầm một bó đuốc dơ lên nói:

- Hết thảy mọi biện giải cao thâm chỉ như cái lông tơ nơi tháihư, hết thảy mọi yếu quyết chỉ như giọt nước đổ xuống vực.

Bèn đốt hết các bộ sớ sao rồi vái lạy mà đi.

* Lời bàn:

Đức Sơn trước khi ra cửa, tâm hừng hực, miệng hằm hằm, dong duổi về Nam, quyết tâm dập tắt chỉ Giáo ngoại biệt truyền (88). Trên đường đến Lễ Châu, Đức Sơn hỏi một bà lão để mua đồ ăn điểm tâm. Bà lão nói: “Trong xe của Đại đức có chở sách vở gì đó? “ Đức Sơn đáp: “Mấy bộ sớ sao Kinh Kim Cương”. Bà lão nói: “Cứ như trong kinh dạy, tâm bữa qua bắt không được, tâm bữa nay bắt không được, vậy Đại đức điểm tâm là điểm cái tâm nào?”. Đức Sơn bị hỏi một câu nhưn vậy mà vẫn không chịu chết quách đi trước câu nói của bà lão, lại còn hỏi bà: “Gần đây có Tông sư nào không?”. Bà lão đáp: “Cách đây ngoài năm dặm có Hòa thượng Long Đàm”. Đức Sơn bèn tới Long Đàm, dở hết trò bê bối, thiệt là cà kê dê ngỗng. Long Đàm thực như người thương con không sợ dơ xấu, thấy kẻ kia có đôi chút lửa, vội lấy nước dơ dập tắt liền. Bình tĩnh xét lại, thật đáng nực cười.

* Kệ tụng:

Nghe tên chẳng được như nhìn mặt,

Nhìn mặt sao bằng nghe được tên.

Dẫu đã khai thông đường mũi nọ,

Ngặt rằng mắt ấy lại đui liền …”

Thông tin về cuốn sách:

Tên sách

Vô môn quan

Tác giả

Giá dự kiến

Đang cập nhật

Số trang

Đang cập nhật

Nhà xuất bản  

Nhà xuất bản

Khổ

Đang cập nhật

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2015(Xem: 11706)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối. LDKG có liên hệ chặt chẽ với giáo lý duyên khởi nổi tiếng trong đạo Phật. Cho những ai chưa quen thuộc nhiều với những lời Phật dạy, lý duyên khởi là một chuỗi mười hai yếu tố nhân quả kết nối với nhau. Yếu tố cuối cùng trong chuỗi nhân quả này là khổ. Bởi vì là một chuỗi nhân quả, nó cho ta thấy khổ phát sinh như thế nào. Yếu tố thứ nhất của mười hai nhân duyên là vô minh – không có khả năng thấy được thế gian như nó là, và nó thật sự hoạt động như thế nào. Như thế, bắt đầu với vô minh, yếu tố này dẫn đến yếu tố sau, tiếp luôn cho đến khổ đau. Do vậy, lý duyên khởi chỉ cho ta thấy khổ đau chính là hậu quả của vô minh.
16/05/2015(Xem: 24758)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này? Hãy nôn nó ra, vứt hết đi, không chừa lại một chút gì cả. Bạn sẽ cảm thấy dễ chịu khi vứt bỏ nó đi. Rồi cõi lòng bạn tràn ngập tình bi mẫn vị tha, thẩm thấu qua từng lỗ chân lông bạn. Hãy hiển lỗ tâm từ vô nhiễm trào dâng thương yêu. Hãy để những ai đến với bạn đều nhận được vầng quang hảo tâm không thể chối từ, cũng như khi rời xa, họ cảm thấy được cảm thông và can đảm hơn để đối mặt với cuộc đời đầy gian truân và nghiệt ngã này.
15/05/2015(Xem: 26355)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
12/05/2015(Xem: 22584)
Video: Những Hiểu Lầm về Đạo Phật
01/05/2015(Xem: 30698)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
05/04/2015(Xem: 14042)
Cái Tâm là cái chi chi, có chi chi củng cứ chi chi với Tâm. Theo quan niệm của Phật Giáo, Duy Thức Luận: Tâm thức tạo ra thế giới vạn vật, "tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức" hay "nhất thiết duy tâm sở tạo." Tất cả đều nói lên một ý rằng cả thế giới chúng ta đang sống đều do tâm thức tùy theo nhân duyên mà sanh ra muôn sự, muôn vật rồi cũng tùy theo nhân duyên mà diệt đi. Không có việc gì, vật gì, có thực tướng ngay cả chư pháp, tồn tại vĩnh viễn ngoại trừ Tâm Bồ Đề là vô sinh, vô diệt đó chính là Tâm Phật.
27/03/2015(Xem: 7718)
Hình ảnh tâm như đài gương, như tấm kính sáng… thường được nhắc tới trong Thiền Tông Trung Hoa, Việt Nam và Nhật Bản. Thực sự không phải là những hình ảnh mới do người đời sau sáng tạo nên. Đức Phật đã từng nói như thế. Lời của Đức Phật cô đọng, rất mực cô đọng khi nói tới các hình ảnh này, như dường chỉ nói cho một số ít người và không cần giảỉ thích nhiều.
16/03/2015(Xem: 8726)
Con đường luận pháp nhứt là trực chỉ nhân tâm hay trở về chân nguyên, tức là phải rõ đệ nhất nghĩa các kinh Phật dạy mà hành đúng pháp, là một việc cần liễu tri và tinh thông thành phần và mục đích pháp học mới có thể mở ra lối đi chân chánh giác ngộ niết bàn. Giải thoát khỏi dòng tâm thức vẩn đục (vô minh) để được minh tâm kiến tánh là hướng đi của mọi tu sĩ. Phổ Nguyệt mong mỏi pháp Phật nhiệm mầu được soi sáng bằng tuệ quán của mỗi người chúng ta cố gắng thâm cứu và thực hiện hoàn mỹ hơn đem lại nhiều lợi ích hơn trong việc tu học.
21/01/2015(Xem: 9785)
Nguyên văn emai của một cư sĩ: Con có một thắc mắc bấy lâu không biết hỏi ai, con kính xin Thầy giải thích dùm cho con. Câu hỏi này có liên hệ tới bài kệ cô đọng của Lý Duyên Khởi: "Cái này có, cái kia có Cái này sinh, cái kia sinh Cái này không cái kia không Cái này diệt cái kia diệt" Theo chỗ con hiểu, bài kệ này là công thức rốt ráo tóm tắt sự vận hành của Lý Duyên Khởi. Theo như Thế Tôn nói, nó luôn đúng và cho dù Phật có ra đời hay không có ra đời thì nguyên lý này vẫn đứng vững, không thể nào khác hơn được và không có ngoại lệ.
15/01/2015(Xem: 13115)
Con xin thành kính đảnh lễ và tri ân: -Đức Đạt Lai Lạt Ma,và Hòa Thượng Lhakor cùng Thư Viện Tây Tạng đã hoan hỷ cho phép con được chuyển dịch nguyên tác “The Way to Freedom” từ Anh Ngữ sang Việt Ngữ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]