Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[D] Kinh Tam Bảo

24/05/201319:34(Xem: 5824)
[D] Kinh Tam Bảo



Đức Phật và Phật Pháp
(The Buddha and His Teachings)
Hòa thượng Narada, 1980
Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998

---o0o---

Phụ Bản 4

Tam Bảo Kinh
(Ratana Sutta)

---o0o---

1.Bất luận ai tụ hội nơi đây, hoặc chúng sanh trên địa cầu hoặc chúng sanh ở cảnh Trời, ngưỡng mong tất cả đều an lành hạnh phúc! Tất cả hãy chăm chú lắng nghe những lời này [1].

2. Tất cả hãy chú tâm suy niệm; hãy biểu lộ lòng từ ái đối với chúng sanh trong cảnh người; ngày đêm hằng dâng cúng [2]. Hãy tận tình hộ trì những người ấy.

3. Dù kho tàng quý giá nào trên đời hay trong một cảnh giới khác, dù châu báu [3] trong những cảnh Trời [4], không có gì sánh bằng Đức Thế Tôn.

Đúng vậy, Đức Phật là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!

4. Bậc Thiện Trí [5] dòng Sakya (Thích Ca) đã viên mãn Chấm Dứt phiền não, Ly Dục và thành đạt trạng thái Vô Sanh Bất Tử Vô Thượng. Không có gì sánh bằng Giáo Pháp (Dhamma).

Đúng vậy, Giáo Pháp là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc.

5. Các bậc Thánh Nhân mà Đức Phật Tối Thượng tán dương, được mô tả là "tâm an trụ không gián đoạn" [6]. Không có gì như tâm an trụ ấy.

Đúng vậy, Giáo Pháp là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!

6. Tám Vị Thánh ấy [7], hợp thành bốn đôi, được bậc thiện trí tán dương; Các Ngài là những bậc đáng được cúng dường, là đệ tử của Đấng Thiện Thệ - vật dâng cúng đến các Ngài sẽ đem lại quả phúc dồi dào.

Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!

7. Với ý chí kiên trì vững chắc, sống trọn vẹn trong Giáo Huấn của Đức Gotana, không ái dục, các Ngài đã thành đạt những gì cần thành đạt [8] và thể nhập quả vị Bất Tử, các Ngài an nhàn thọ hưởng cảnh Thanh Bình An Lạc.

Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!

8. Như trụ cột [9] chôn sâu trong lòng đất không thể bị gió bốn phương lay chuyển, cùng thế ấy, Như Lai tuyên ngôn, con người chánh trực đã chứng ngộ Tứ Thánh Đế cũng như vậy.

Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!

9. Những bậc đã thấu đạt rõ ràng các Thánh Đế mà bậc Trí Tuệ thậm thâm đã giáo truyền, dầu dể duôi phóng dật, vẫn không tái sanh đến lần thứ tám [10].

Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!

10. Người chứng ngộ Minh Sát [11], ba điều kiện [12] nếu còn, sẽ được loại trừ , đó là - thân kiến [13], hoài nghi [14], và giới cấm thủ. Không bao giờ sa đọa vào bốn khổ cảnh [15] và không còn có thể vi phạm sáu trọng nghiệp bất thiện [16].

Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!

11. Bất luận hành động nào mình đã làm bằng thân, khẩu hay ý, bậc Thánh Nhân không thể giấu; bởi vì người đã thấy Con Đường không thể còn phạm lỗi.

Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!

12. Cũng dường như cây trong rừng [17] đua nhau đâm chồi nở mọng trên ngọn [18] khi mùa hè bắt đầu ấm nóng [19], Giáo Pháp Tối Thượng dẫn đến Niết Bàn đã được giáo truyền vì Lợi Ích Tối Thượng cũng cùng thế ấy.

Đúng vậy, Giáo Pháp là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!

13. Đức Thế Tôn Vô Thượng, bậc Toàn Giác, bậc Thánh Nhân đã ban bố, bậc đã Đem Đến và Giáo Truyền Pháp Cao Siêu Tối Thượng.

Đúng vậy, Đức Phật là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!

14. Quá khứ đã chấm dứt, vị lai không còn nữa, tâm không dính mắc trong một kiếp tái sanh vị lai, tham ái không khởi sanh [20] - các bậc trí tuệ ấy siêu thoát như ngọn đèn kia chợt tắt [21].

Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!

15. Chúng ta tụ hội nơi đây, dù là chúng sanh ở địa cầu hay thiên giới, hãy đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc được chư Thiên và nhân loại kỉnh mộ tôn vinh. Ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!

16. Chúng ta tụ hội nơi đây, dù là chúng sanh ở địa cầu hay thiên giới, hãy đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc được chư Thiên và nhân loại kỉnh mộ tôn vinh. Ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!

17. Chúng ta tụ hội nơi đây, dù là chúng sanh ở địa cầu hay thiên giới, hãy đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc được chư Thiên và nhân loại kỉnh mộ tôn vinh. Ngưỡng mong được an lành hạnh phúc! [22]

---o0o---

Chú Giải Tam Bảo Kinh:

[1] Bản Chú Giải mô tả trường hợp Đức Thế Tôn giảng bài Kinh này như sau:

Vào một lúc nọ dân chúng trong thị trấn Vesali trù phú cùng một lúc gặp phải ba thiên tai - nạn chết đói, nạn bị ma quái phá rầy và nạn dịch hạch. Trước tiên, vì mùa màng thất thoát, những người nghèo không đủ ăn, phải chết đói. Xác chết nằm la liệt, mùi hôi thúi thu hút cảnh âm bất thiện, và sau cùng bệnh dịch hạch truyền nhiễm tai hại.

Trước những tai trời ách nước vô cùng nguy hiểm này, trong lúc dân chúng đang xôn xao bấn loạn thì bỗng nhiên họ nảy sanh ý nghĩ cung thỉnh Đức Phật, lúc ấy đang lưu ngụ tại thành Rajagaha (Vương Xá) gần đó.

Hai vị quý tộc dòng Licchavi hướng dẫn một phái đoàn hùng hậu liền lên đường sang Rajagaha hầu Phật và thuật lại tình trạng đau thương vô cùng tuyệt vọng của họ. Đức Thế Tôn chấp nhận lời thỉnh cầu và cùng Đức Ananda và đông đảo chư Tăng rời Rajagaha sang sông Ganges, đến Vesali.

Khi Đức Phật vừa đến thành Vesali một trận mưa tầm tã ào xuống, quét sạch thành phố và thanh lọc ô nhiễm trong không khí. Khi ấy Đức Phật giảng bài Ratana Sutta (Tam Bảo Kinh) cho Ngài Ananda, rồi dạy Ngài cùng với chư Tăng và đông đảo dân chúng vừa đi khắp thị trấn vừa đọc tụng Kinh này. Ngài Ananda ôm theo bình bát của chính Đức Phật, đựng nước trong đó, và rải nước có đọc kinh cùng khắp. Bản Chú Giải ghi rằng khi chư Tăng vừa đọc những chữ "yam kinci", thì các chúng sanh bất thiện trong cõi âm hoảng sợ rút lui. Bệnh dịch hạch cũng dần dần tan biến. Sau khi chư Tăng đọc kinh để bảo vệ dân chúng trong thành phố xong thì trở về Hội Trường, có Đức Phật chờ nơi đó.

Nhân cơ hội, Đức Phật giảng giải bài Ratana Sutta (Tam Bảo Kinh) cho toàn thể đám đông.

[2] Bản Chú Giải ghi rằng người ta vẽ hình chư Thiên, hoặc đục khắc trên gỗ, rồi làm những bàn thờ nhỏ treo trên cây và hằng ngày đem lễ vật đến cúng.

[3] Danh từ Ratana có nghĩa là trân châu bảo ngọc quý giá. Nơi đây danh từ Ratana, bảo vật, hàm ý là Tam Bảo: Đức Phật, Giáo Pháp và Tăng Già. Theo đúng ngữ nguyên, danh từ "ratana" gồm ba âm - ra, ta và na. "Ra" là thu hút, "ta" là vượt xuyên qua và "na" là dẫn đến. Phật, Pháp, Tăng gọi chung là Ratana, châu báu, bởi vì Tam Bảo có đức hạnh thu hút tâm của bậc thiện trí; là phương tiện đưa chúng sanh vượt qua đại dương của vòng luân hồi (Samsara); và dẫn đến các cảnh Trời và Niết Bàn cho những ai tìm nương tựa nơi Tam bảo.

[4] Danh từ cảnh Trời ở đây bao gồm luôn cả những cảnh Phạm Thiên (Brahma) từ thấp nhất đến cao nhất - Akanittha (Bản Chú Giải).

[5] Gọi như vậy vì Ngài đã hoàn toàn tận diệt mọi ái dục (Bản Chú Giải).

[6] Magga (Đạo) được gọi là Anantarika Samadhi, tâm định liên tục, không gián đoạn, bởi vì Phala (Quả) theo sau tức khắc không có thời gian gián đoạn.

[7] Tám vị Thánh Nhân ấy là: (i) Vị đã chứng đắc Sotapatti, Tu Đà Huờn Đạo, và (ii) Tu Đà Huờn Quả; (iii) vị đã chứng đắc Sakadagami, Tư Đà Hàm Đạo, và (iv) Tư Đà Hàm Quả; (v) vị đã chứng đắc Anagami, A Na Hàm Đạo, và (vi) A Ha Hàm Quả, (vii) vị đã chứng đắc Arahant, A La Hán Đạo, và (viii) A La Hán Quả.

Như vậy tính từng cá nhân thì có tám vị, tính cặp thì có bốn đôi.

[8] Tức A La Hán Quả.

[9] Indakhila-Inda, có nghĩa Sakka, Vua Trời Đế Thích. Danh từ Indakhila có nghĩa là trụ cột đã được vững chắc chôn sâu trong lòng đất, vừa cao vừa vững như trụ cột của Vua Trời Sakka.

Bản Chú Giải ghi rằng những Indakhila (trụ cột) này được trồng bên trong thành phố để làm đẹp, hoặc bên ngoài như một dấu hiệu bảo vệ. Thông thường những trụ cột này, hình bát giác, được xây lên bằng gạch hoặc bằng gỗ tốt. Phân nửa cây trụ được chôn sâu dưới đất - do đó có thành ngữ: vững chắc như trụ cột Indakhila.

l10] Người đã thành đạt tầng Thánh đầu tiên (Sotapatti, Tu Đà Huờn) chỉ còn tái sanh nhiều lắm là bảy lần.

[11] Tức lần đầu tiên nhoáng thấy Niết Bàn.

[12] Trong mười Samyojana, thằng thúc (kiết sử), tức mười dây trói buộc cột chặt chúng sanh vào vòng luân hồi, ba thằng thúc đầu được loại trừ.

[13] Thân Kiến, Sakkayaditthi - sự tin tưởng cho rằng thân này hiện hữu, tức quan niệm có một linh hồn hay tự ngã thường còn. Đây là một trong ba "Mannana", hay ý niệm, phát sanh liên quan đến thân. Hai ý niệm kia là Tanha (ái dục) và Mana (ngã mạn) -- Bản Chú Giải. Buddhist Psychology, trang 257.

[14] Lòng hoài nghi (i) Buddha, Đức Phật; (ii) Dhamma, Giáo Pháp; (iii) Sangha, Tăng Già; (iv) Giới Luật; (v) quá khứ,;(vi) vị lai; (vii) quá khứ và vị lại; (viii) Paticca Samuppada, Định Luật Phát Sanh Tùy Thuộc. Xem Buddhist Psychology, trang 260.

[15] Bốn khổ cảnh là: địa ngục (niraya), cảnh thú, cảnh ngạ quỷ (Peta) và A-tu-la (Asura).

[16] Abhithanani, sáu trọng nghiệp bất thiện là: (i) giết mẹ, (ii) giết cha, (iii) giết một vị A La Hán, (iv) làm chảy máu Đức Phật (v) chia rẽ Tăng Già và (vi) khư khư chấp thủ tà kiến (Niyata Miccha Ditthi).

[17] Vanappagumbe. Bản Chú Giải giải thích rằng danh từ này do hai thành phần họp lại, Vane pagumbo, chồi cây trong rừng. Nơi đây định sở cách (locative) được dùng trong ý nghĩa của chỉ chủ cách (nominative).

[18] Đây cũng vậy, định sở cách được dùng trong ý nghĩa chỉ chủ cách.

[19] Cũng như vào lúc đầu mùa Hạ cây cối đâm ở mọng xinh tươi sáng sủa, Giáo Pháp (Dhamma) với nhiều lời dạy quý báu, được Đức Phật ban truyền rộng rãi, cũng tươi sáng vinh quang cùng thế ấy.

[20] Một vị A La Hán không còn tái sanh vì đã tạo nghiệp trong quá khứ. Những hành động của các Ngài được gọi là Kiriya (hành) không tạo nghiệp vì đã không còn mảy may ô nhiễm tham ái.

[21] Chỉ ngọn đèn được thắp lên để cúng dường chư Thiên trong thành phố, ngay lúc ấy vừa tắt.

[22] Khi Đức Bổn Sư chấm dứt thời Pháp thoại và ban rải những tư tưởng an lành hạnh phúc đến dân chúng thành Vesali, Vua Trời Sakka (Đế Thích) đọc tụng ba câu kệ cuối cùng và bái từ Đức Phật, cùng với đoàn tùy tùng ra về.

Bản Chú Giải ghi rằng Đức Thế Tôn thuyết giảng bài Kinh này liên tiếp bảy ngày tại Vesali.

--- o0o ---

| Thư Mục Tác Giả |

--- o0o ---

Chân thành cám ơn anh Hứa Dân Cường và các thiện hữu đã phát tâm giúp tổ chức đánh máy vi tính; đạo hữu Bình Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử bộ sách này.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)

Trình bày : Nguyên Hân Ngọc Hạnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/11/2017(Xem: 11270)
Tứ Diệu Đế, 3 Chuyển 12 Hành ------------------------------------------------- Thich-Nu-Hang-Nhu Thích Nữ Hằng Như NGUỒN GỐC Dựa theo "Tiến Trình Tu Chứng và Thành Đạo của Đức Phật", chúng ta biết rằng sau khi Đức Phật từ bỏ pháp tu từ hai vị đạo sĩ Alàra Kàlama và Uddaka Ramàputta đã dạy Ngài bốn tầng Định Yoga là: "Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ", đồng thời từ bỏ luôn pháp tu khổ hạnh kéo dài 6 năm, là một pháp tu đã khiến Ngài suýt mất mạng mà không đạt được thượng trí và Niết Bàn. Sau đó Đức Phật tự chọn pháp Thở để tu tập.
21/11/2017(Xem: 11476)
Từ Kinh Phật Sơ Thời Đến Thiền Đốn Ngộ Giới Thiệu Tác Phẩm “Thiền Tông Qua Bờ Kia” Của Cư Sĩ Nguyên Giác--Trong tác phẩm mới xuất bản “Thiền Tông Qua Bờ Kia” tác giả Cư Sĩ Nguyên Giác kể chuyện buổi đầu ông học Thiền với Hòa Thượng Bổn Sư Thích Tịch Chiếu ở Chùa Tây Tạng tại Tỉnh Bình Dương, Việt Nam như sau: “Tôi nhớ lại buổi đầu gặp Hòa Thượng Tịch Chiếu, hỏi Thầy rằng con nên tập Thiền thế nào, Thầy nói rằng, “Phải Thấy Tánh đã.” Lúc đó, Thầy bảo đứa em kế tôi phải niệm Phật sáng trưa chiều tối, và quay sang đứa em gái kế sau nữa của tôi, bảo nhỏ này là con hãy về đọc bài Bát Nhã Tâm Kinh tối ngày sáng đêm. Tôi hỏi, rồi con cần niệm hay đọc gì hay không, Thầy đáp, con không có một pháp nào hết.”[1]
19/11/2017(Xem: 5878)
Chris Impey là Phó Khoa Trưởng của Đại Học Khoa Học, và là một Giáo Sư Xuất Chúng của Khoa Thiên Văn Học thuộc Đại học Arizona (Hoa Kỳ). Công trình nghiên cứu của ông đặt trọng tâm vào việc phát triển và cung cấp năng lượng của những lỗ đen khổng lồ trong các thiên hà.Ông đã viết hai cuốn sách giáo khoa, một tiểu thuyết, tám cuốn sách khoa học phổ thông, và hơn 250 bài nghiên cứu và bài báo.Khiêm Tốn TrướcHư Không(Humble Before the Void ), một cuốn sách dựa trên những khóa hội thảo được mô tả trong bài báo này, do Templeton Press xuất bản năm 2014
01/11/2017(Xem: 10588)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
25/08/2017(Xem: 23333)
Bản Giác (sách pdf) tác giả: Tiến sĩ Lâm Như Tạng
21/06/2017(Xem: 8532)
* Trong vũ trụ có trùng trùng thế giới. Toàn Giác là bậc câu thông cùng vũ trụ, họ cùng một thể tánh với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ rồi “truyền thần” lại sự thấy biết đó. Để thấy rằng Đức Bổn sư không sáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn sống động từ vô thỉ dù Phật có ra đời hay không.
25/04/2017(Xem: 9676)
Đức Phật đôi khi có đề cập tới tính chất và các thành phần của vũ trụ. Theo Ngài, có nhiều hình thức đời sống hiện hữu ở các nơi khác trong vũ trụ. Với đà tiến bộ nhanh chóng của khoa học ngày nay, có lẽ không bao lâu nữa chúng ta sẽ khám phá ra các loài sinh vật khác đang sống ở các hành tinh xa nhất trong dãi thiên hà của chúng ta. Có thể các chúng sanh nầy sống trong những điều kiện và qui luật vật chất khác, hay giống như chúng ta. Họ có thể hoàn toàn khác chúng ta về hình thể, thành phần và cấu tạo hoá học
24/04/2017(Xem: 10380)
Lời giới thiệu: Chúng tôi viết quyển sách này với mong muốn được trình bày theo cái hiểu và suy nghĩ của riêng mình. Kính mong rằng các bậc cao Tăng thạc đức niềm tình tha thứ nếu có chỗ nào sai xót. Chúng con hàng hậu học, vừa học, vừa tu vừa hướng dẫn lấy Kinh luật luận làm nền tảng. Trước tiên, chúng ta cần phải hiểu biết rõ ràng về Phật giáo và ứng dụng lời Phật dạy trong đời sống hằng ngày. Chuyển nghiệp là quá trình nỗ lực làm cho phàm tính trong con người trở thành Thánh tính của bậc hiền.
18/04/2017(Xem: 8206)
Hai năm về trước, ngẫu nhiên đọc được bài diễn văn ‘Giá Trị của Khoa Học’ (The Value of Science) bởi Dr. Richard Feynman, Mùa Thu, 1955, (in Volume XIX, ENGINEERING AND SCIENCE, December 1955) rất nổi danh ở trên internet nhưng lúc đó tôi chưa đủ trình độ để hiểu nổi cái trí tuệ thậm thâm viên diệu của ông ta dù lúc đó tôi cảm thấy rất hấp dẫn.
18/04/2017(Xem: 7203)
Bài viết này được trình bày qua công trình nghiên cứu, suy luận, tham khảo, sáng tác và phóng dịch từ những nguồn gốc tài liệu giá trị bởi những khối óc vĩ đại của các khoa học gia Tây Phương cũng như của những cao tăng và những thiện tri thức, đã được tôi tư duy hóa, đồng cảm hóa, và Phật Giáo hóa để chứng minh vài công án nan giải của khoa học. Nó được xem như là một phương tiện trí tuệ của Phật Thừa để giải thích những gì khoa học hiện đại chưa thể vượt qua được.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]