Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử HT Thích Thuyền Ấn

16/04/201318:56(Xem: 10113)
Tiểu sử HT Thích Thuyền Ấn
ht_thich_thuyen_an_final


Tiểu Sử và Công Hạnh
Đại Lão Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn

Đại Lão Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1927, tại tỉnh Quảng Bình, Việt Nam.

Do túc duyên nhiều đời với Phật Pháp, năm lên 3 tuổi ngài được song thân cho vào chùa và xuất gia với Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Hồng Tuyên, khai sơn và trú trì Chùa Phổ Minh, Quảng Bình. Ngài được Hòa Thượng Bổn Sư cho Pháp Danh là Nhật Liên, Pháp Tự là Thiện Giải và Pháp Hiệu là Thuyền Ấn.

Đại Lão Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn thuộc Thiền Phái Lâm Tế đời thứ 41. Ngài cũng là Pháp Đệ của Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang.

Đại Lão Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn là một trong những Tăng Sĩ ra gánh vác Phật sự từ trước khi GHPGVNTN ra đời. Vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, Đại Lão Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn đã được công cử làm Hội Trưởng Hội Phật Giáo Thừa Thiên-Huế. Ngài cũng đã giảng dạy tại Phật Học Đường Nha Trang và Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, và là giảng sư của Tỉnh Hội Phật Giáo Buôn Mê Thuộc.

Đại Lão Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn đã du học tại Đại Học Wisconsin, Hoa Kỳ và tốt nghiệp văn bằng Cao Học. Về nước, trú tại Chùa Ấn Quang, Trụ Sở của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN vào đầu thập niên 1970, Hòa Thượng dạy tại Đại Học Vạn Hạnh. Các sinh viên tại Vạn Hạnh và Phật tử tại Chùa Ấn Quang đều biết Hòa Thượng là người tâm đắc cuốn “Siddhartha” của văn hào Đức Hermann Hesse bởi vì trong các thời giảng Ngài đều đề cập đến tác phẩm này.

Trong Đại Hội Khoáng Đại Kỳ 7 của GHPGVNTN tổ chức tại Chùa Ấn Quang vào tháng 1 năm 1977, Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn đã được suy cử làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp.

Tháng 6 năm 1977, Đại Lão Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn đã bị CSVN bắt bỏ tù cùng với quý Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Hòa Thượng Thích Thông Bửu, Thượng Tọa Thích Thông Huệ, Thượng Tọa Thích Thanh Thế, v.v... Đến tháng 9 năm 1978 CSVN mới mở phiên tòa kết án chư tôn Giáo Phẩm Viện Hóa Đạo, vì thời gian ở tù đúng với bản án nên quý ngài đã được thả ra.

Sau khi ngồi tù về, trong tình hình GHPGVNTN bị chính quyền CSVN hạn chế, kiểm soát, gây khó khăn mọi mặt, nhưng Ngài vẫn giữ vững lập trường trung trinh với Giáo Hội cùng với chư tôn giáo phẩm tiếp tục phục vụ GHPGVNTN.

Đầu thập niên 1990, Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn được Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh sang Mỹ và trú tại Chùa Việt Nam, Los Angeles, California, Hoa Kỳ.

Từ đó, Đại Lão Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn tiếp tục cùng với chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử hậu thuẫn đường lối của GHPGVNTN tại hải ngoại.

Mặc dù Phật sự đa đoan và tuổi cao sức yếu, Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn vẫn nỗ lực phi thường để theo học và hoàn tất học vị Tiến Sĩ tại Đại Học Hawaii, Honolulu, Hoa Kỳ.

Tháng 5 năm 1999, trong Đại Hội Khoáng Đại Kỳ 8 của GHPGVNTN được tổ chức tại Phật Học Viện Quốc Tế, Thành Phố North Hills, California, Hoa Kỳ, Ngài đã được cung thỉnh vào Hội Đồng Chứng Minh của GHPGVNTNHNHK/VPII/VHĐ.

Tháng 10 năm 2003, tại Đại Hội Bất Thường của 4 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Châu, Âu Châu, Hoa Kỳ và Canada, tại Tu Viện Quảng Đức, Úc Châu, Ngài đã được cung thỉnh vào chức vụ thành viên Hội Đồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống GHPGVNTN.

Tháng 9 năm 2008, trong Đại Hội Khoáng Đại Thành Lập GHPGVNTNHK được tổ chức tại Chùa Bát Nhã, thành phố Santa Ana, California, Hoa Kỳ, Ngài được cung thỉnh vào chức vụ Chứng Minh cho GHPGVNTNHK.

Thuở sinh tiền, Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn đã phiên dịch và sáng tác nhiều tác phẩm, trong đó có bản dịch Việt Ngữ bộ Duy Thức Tam Thập Tụng của Bồ Tát Thế Thân, và nhiều bài khảo luận cũng như hàng trăm bài thơ khác. Xin trích bài thơ Thu Đông do Hòa Thượng đã sáng tác để tưởng niệm đến Ngài.

THU ĐÔNG

Thu về gom hết lá vàng,

Đông sang đốt sáng ngồi đàn dưới trăng.

Biển khơi ngắm ngọn hải đăng,

Cho thuyền lướt sóng phăng phăng đi về.

Vượt biển khổ qua sông mê,

Đốt tan phiền não u mê kiếp người.

Mặt trời thức dậy tươi cười,

Đại dương rực rỡ sáng ngời mông mênh.

Hư không vời vợi bình minh,

Thọ trì Bát Nhã Tâm Kinh tuyệt vời.

Chân như vượt thoát ý, lời,

Thời gian ngưng đọng xa khơi diệu huyền.

Chân tâm tĩnh lặng vô biên,

Tiêu tan muôn kiếp tội khiên luân hồi.

Bản lai diện mục đâu rồi,

Đem ra phơi nắng trên đồi không mây.

Mặt trời sắp lặn đồi tây,

Trăng lên thơ mộng đó đây sáng ngời.

Nai vàng ngơ ngác ven đồi,

Bâng khuâng mây trắng ngang trời trôi đi.

Nước hồ thu tợ lưu ly,

Chim bay qua đó mấy khi lưu hình.

Rừng xanh non nước hữu tình,

Bao la tinh tú lung linh muôn đời.”

(Nguồn www.buddhahome.net , Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo)

Cách nay hơn một năm, Đại Lão Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn đã lâm trọng bịnh. Từ đó đến nay, Ngài đã được nhân viên bệnh viện, viện dưỡng lão và chư Tăng Ni Chùa Bát Nhã tận tình chăm sóc. Nhưng, vì tuổi già sức yếu, tấm thân tứ đại hao mòn, Ngài đã thuận theo lẽ tự nhiên của thuyết vô thường xả bỏ báo thân vào lúc 12:15 phút sáng ngày 31 tháng 10 năm 2010, tại Thành Phố Garden Grove, California, Hoa Kỳ, đúng vào ngày Chùa Bát Nhã cung tiễn Phật Ngọc Hòa Bình Thế Giới, sau hơn một tuần cung nghinh chiêm bái.

Ngài ra đi, Giáo Hội mất đi một vị giáo phẩm trung kiên, tăng già Phật Giáo Việt Nam mất đi một cây đại thọ che bóng, Tăng, Ni và quần chúng Phật tử mất đi một vị đạo sư khả kính.

Hôm nay, trước Giác Linh Đài của Ngài, Tăng tín đồ Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ nói riêng và hải ngoại nói chung thành tâm cúi đầu đảnh lễ, cung tiễn Giác Linh Đại Lão Hòa Thượng Tân viên tịch vào Niết Bàn tịch tịnh, và ngưỡng nguyện Ngài sớm trở lại Ta Bà để tiếp tục hạnh nguyện hoằng pháp lợi sinh.

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn Tứ Thập Nhất Thế Húy thượng Nhật hạ Liên, Tự Thiện Giải, Hiệu Thuyền Ấn Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh Liên Tọa Chứng Giám.

(Môn đồ pháp quyến tại Hoa Kỳ phụng soạn)

----o0o---
Vi tính: Huỳnh Tấn Lê - Tâm Huy

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/03/2017(Xem: 6574)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực.
01/02/2017(Xem: 5508)
Một số tư tưởng Phật học sau đây cùng nói lên nghĩa của Ý Giáo : Ý tưởng mong muốn đem giáo Pháp giải thoát của Phật ra, giảng dạy cho mọi người được biết mà tu tập. Tâm thông đạt mọi khế lý, giáo nghĩa Phật pháp. Tự mình làm thầy lấy mình để sửa tâm. Tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hành giả vào đạo Phật để tìm con đường giải thoát
22/12/2016(Xem: 29002)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
13/11/2016(Xem: 9995)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 7390)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 5386)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
30/04/2016(Xem: 17567)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 35765)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
26/01/2016(Xem: 14057)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
15/01/2016(Xem: 9900)
Dưới đây là phần chuyển ngữ của một bài viết trong quyển "Người phụ nữ" ("Les Femmes", nhiều tác giả, nhà xuất bản de l'Atelier, 2002), thuộc một bộ sách với chuyên đề "Các tôn giáo nghĩ gì?" (Ce qu'en pensent les religions). Tác giả bài viết này là Dominique Trotignon, nguyên tổng giám đốc Viện Nghiên Cứu Phật Học (IEB/Institut d' Etude Bouddhique) của Pháp, tu tập theo Phật giáo Theravada.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]