Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sám Hối Nghiệp Chương (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng ngày 29/6/2020, bài trình pháp của đệ tử Quảng Tịnh Tâm)

30/06/202010:54(Xem: 12918)
Sám Hối Nghiệp Chương (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng ngày 29/6/2020, bài trình pháp của đệ tử Quảng Tịnh Tâm)



TT Thich Nguyen Tang__sam hoi nghiep chuong_07



Nam Mô A DI ĐÀ PHẬT

 

Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay SP giảng bài kệ thứ 7 :

 

Sám hối nghiệp chướng

 

"Tội tùng tâm khởi tương tâm sám

Tâm nhược diệt thời tội diệc vong

Tội vong tâm diệt, lưỡng câu không

Thị tắc danh vi chơn sám hối".

 

Dịch nghĩa:

 

“Tội từ tâm khởi đem tâm sám,

Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu,

Tội tiêu tâm tịnh thảy đều không.

Như thế thật là chân sám hối.”.

 

Giải nghĩa chữ Sám Hối:
 "Sám giả sám kỳ tiền khiên
 Hối giả hối kỳ hậu quá".

Nghĩa là:  Sám là ăn năn lỗi trước, còn Hối là chừa bỏ lỗi sau.

 

Hoặc một giải nghĩa khác:

“Sám kỳ dĩ vãng
Hối kỳ vị lai”

Nghĩa là:  Sám là ăn năn lỗi lầm trong quá khứ, còn Hối là ngăn ngừa những ác nghiệp trong tương lai, quyết không vi phạm.

 

Về sự, sám hối có “ tác lễ sám hối và đối thủ sám hối”, có nghĩa là hành giả tắm rửa sạch sẽ,  mặc áo tràng đến trước bàn thờ Phật, lễ Phật hồng danh thành tâm sám hối.

 

Về lý, có “ Vô sanh sám hối”,  hành giả quán chiếu tự tâm hiện tiền của mình luôn ở thể tự tánh không, vô sanh, một khi tâm vô sanh thì vọng niệm không từ đâu mà có, vọng niệm mà không có thì các tội lỗi cũng không có cơ  hội để phát sanh, nên kệ mới nói "Tội từ nơi tâm mà sanh mà tội cũng từ nơi tâm mà diệt, ở đây, nếu tâm này không sanh thì tội cũng không có, thế mới thật là sám hối". Sư phụ có nhắc thêm phần Lý Sám Hối này chỉ dành cho bậc thượng căn thượng trí mà thôi, còn hàng phàm phu mắt thịt như chúng ta phải áp dụng hằng ngày 2 pháp sự Sám Hối là "Tác pháp và đối thủ Sám hối".

Nên Sư Ông Làng Mai dịch bài này qua thơ vần rất hay:

“Bao nhiêu lầm lỗi cũng do tâm
Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm
Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm
Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong”.

 

Sư Phụ cũng lưu ý rằng nếu ai phạm tánh tội (4 tội sát, đạo, dâm, vọng) thì dầu có sám hối  nhưng đương vẫn phải trả nghiệp quả báo, nếu phạm tướng tội (những tội nhẹ ) sám hối có thể tiêu trừ.

 

Sư phụ có kể 4 câu chuyện để minh chứng cho chủ đề Sám Hối hôm nay. Chuyện thứ nhất là trường hợp của Tôn giả Ungulimala (Vô Não) đã chặt  99 ngón tay để dâng cúng cho thầy tà Ba La Môn để học phép thuật, cuối cùng được Thế Tôn hóa độ cho xuất gia, sau 3 tháng Ngài đã chứng quả A La Hán, nhưng lúc đi khất thực vẫn bị thiên hạ người đánh đập đổ máu, Ngài im lặng nhận chịu quả báo.

 

Câu chuyện thứ 2 về trường hợp vua A Xà Thế soán ngôi, và bắt giam cha vào ngục tối để hành hình để trả ân oán khi xưa. Câu chuyện cảm động khi A Xà Thế có con trai, vui mừng hớn hở, được Mẫu hậu Vi Đề Hy, kể lại là lúc A Xà Thế còn nhỏ có mụt nhọt sưng mủ ở ngón tay đau đớn , vua cha Bình Sa Vương đã ngậm ngón tay đầy mủ cho thái tử bớt đau. Nghe mẹ kể, ông động lòng ra lệnh thả cha ra, nhưng đã không kịp, vì vua cha đã chết.

Vua cha Bình Sa Vương đã phải trả nghiệp vì đã giết tiền thân của A Xà Thế để ép làm con của ông ở kiếp này.


Câu chuyện thứ 3, Sư phụ kể về nhân vật Võ Hữu Hoằng (cũng gọi là Võ Thủ Huồng, vì trùng tên của Vua Càng Long Hoằng Lịch bên Tàu, nên phải gọi trại từ Hoằng thành Huồng). Ông làm thơ ký cho nha môn của triều Nguyễn ở Châu Đại Phố vào khoảng năm 1755; ông bẻ cong ngòi bút của ông để kiếm tiền, người có tội ông giúp viết thành vô tội để lấy tiền, rồi dùng tiền cho vây nặng lãi để kiếm lời.

 

Vợ ông chết sớm, ông đau khổ từ quan, vì tiền nhiều, không có con cái , vợ lại chết sớm, ông đau khổ nhớ thương vợ, có người mách cho ông đến chợ Ma Mãnh để được pháp sư làm lễ đưa thần thức xuống âm phủ để thăm vợ, khi xuống âm ti ông tận mắt nhìn thấy những cực hình dành cho những kẻ phạm nhiều tội ác khi còn sống và ông cũng đã nhìn thấy một cái gông to, mà cai ngục cho biết là để dành cho bản thân ông.  Ông giật mình sợ hãi trở lại nhân gian đem hết tiền vàng giành dùm từ việc làm thương thiên hại lý trước kia mà bố thí, giúp đời, cứu người.  Ông xây chùa, bắt cầu, kết tre lại làm bè, trên che lợp phòng ốc, sắm đủ bếp núc, gạo, củi, và đồ ăn để dưới bè cho hành khách tùy ý dùng mà không cần trả tiền. Về sau chỗ này có địa danh là Nhà Bè ở Saigon bây giờ). Về già ông Thủ Huồng chết và tái sanh qua làm Vua Đạo Quang (1782-1850) bên Trung Quốc, ông vua này lúc lên ngôi (1820) có cho đại sứ sang Việt Nam hỏi lai lịch một người ở thành Gia Định. Duyên do là khi mới chào đời, trong lòng bàn tay vua đã có mấy chữ "Đại Nam, Gia Định, Thủ Hoằng".  Sau khi đã điều tra, nhà vua có gởi cúng dường chùa Chúc Thọ (chùa Thủ Huồng) ở Biên Hòa một bộ tượng Phật Tam Thế bằng gỗ trầm hương. Do việc này, mà có người bảo rằng: Nhờ thành tâm sám hối tội lỗi và làm phước để chuộc lỗi ông Thủ Huồng không những làm tiêu tan cái gông đang chờ ông ở cõi âm, mà còn được tái sanh trở lại làm vua ở cõi người. Một nhà thơ tên Nguyễn Tài Năng có làm 1 bài thơ để khen ngợi ông Võ Thủ Huồng:

"Luân hồi nhân quả trả vay luôn,

Đáng kể làm gương có Thủ Huồng.

Cho nợ nhiều lời, Diêm chúa giận,

Hốt tiền kém nghĩa, thế nhân buồn.

Bắc cầu, sửa lộ, ơn ngàn ức,

Vét rạch, xây chùa, đức vạn muôn.

Còn có Đạo Quang, Tam-Thế-Phật,

Làm giàu chánh đáng, mới vuông tròn"

 

Câu chuyện thứ 4: rất tuyệt vời, Sư Phụ kể về Pho Tượng Vua Sám Hối, đó Vua Lê Hy Tông (1675-1705) thuộc triều đại nhà Hậu Lê . Vào khoảng năm 1675, khi vua Lê Hy Tông lên nắm quyền, đã ra sắc lệnh đuổi hết sư sãi ở các chùa lên rừng, ai vi phạm bị khép vào trọng tội đem ra xử trảm, khiến cho Phật giáo thời kỳ này rơi vào thảm cảnh hơn bao giờ hết trong lịch sử. Chùa chiền bỏ hoang, kẻ cắp vào tàn phá, các nhà sư phải bỏ lên rừng, nhiều người không chịu được đói rét lại cởi áo cà sa quay về thế tục. Lúc đó có Thiền Sư Tông Diễn (Vị Tổ thứ 2 của Tông Tào Động) đã cải trang giả vờ về thành Thăng Long dâng tặng nhà vua một viên ngọc quý, nhưng thực chất bên trong là một tờ sớ can gián Vua  ngưng lại việc đán áp Phật Giáo, tờ sớ đó đã để giúp nhà vua nhìn thấy lý mầu vi diệu của PG đã từng giúp cho xứ sở VN thoát khỏi ách thống trị của giặc phương Bắc và mang lại những thời đại vàng son thạnh trị, ấm no hạnh phúc của các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần.

 

Khi đọc được tờ sớ can gián, nhà vua bừng tỉnh cơn mê, Vua lập tức cho triệu ngay Thiền Sư Tông Diễn vào triều, cúi mình tạ lỗi trước nhà sư, sau đó thu hồi sắc lệnh đàn áp Phật Giáo. Tiếp đó, nhà vua cho người tạc bức tượng lớn mà trong đó có hình ảnh nhà vua mặc vương phục cúi đầu sát đất cõng trên lưng tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và đặt tên đó là bức tượng “Vua sám hối”.


Hiện pho tượng này được thờ tại Chùa Hòe Nhai, phố hàng Than, Hà Nội. Tại Chùa này còn có Tháp Ấn Quang, xây năm 1963 để tưởng niệm Bồ Tát Quảng Đức, đã tự thiêu ngày 11/6/1963 ở Miền Nam.  Chùa Hòe Nhai được xây dựng từ thời đại nhà Lý, cách đây hơn 1000 năm.

 

Con kính tri ơn Sư Phụ đã ban cho bài pháp phong phú, với nhiều chuyện kể sống động và đầy lợi lạc cho đại chúng hôm nay.


Cung kính,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm (Montreal, Canada)





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2022(Xem: 12508)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6683)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8808)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7827)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 31821)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 20316)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16730)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10636)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11778)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12246)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567