Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Quan Điểm Khác Nhau trong Đạo Phật

25/10/201407:48(Xem: 20614)
Những Quan Điểm Khác Nhau trong Đạo Phật


Dao Phat_Thich Nghiem Quang



NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU
TRONG ĐẠO PHẬT VÀO THỜI
ẤN ĐỘ CỔ XƯA
Người dịch: Vương Thị Minh Tâm
Nguyên tác:
DISSENT AND PROTEST
IN THE ANCIENT INDIAN BUDDHISM
Tác giả: Đ.Đ –TS. Thích Nghiêm Quang



Mục lục

LỜI GIỚI THIỆU
LỜI NÓI ĐẦU
Chương 1: LỜI DẪN
Chương 2: LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT VÀ NGƯỜI BIỆT GIÁO
I. Quan điểm chung
II. Cuộc đời Đức Phật trong tạng kinh Pali
– Thành lập Tăng già
– Tăng già, nhà nước, và hàng cư sĩ
III. Đề Bà Đạt Đa, kẻ biệt giáo đầu tiên
– Quan hệ của Đức Phật và Đề Bà Đạt Đa
– Chân dung Đề Bà Đạt Đa trong tạng kinh Pali
– Chân dung Đề Bà Đạt Đa trong truyền thuyết
– Đề Bà Đạt Đa và năng lực siêu nhiên
– Đề Bà Đạt Đa, nguyên nhân của sự ly giáo
– Nghiên cứu để tìm ra chân dung thực của Đề Bà Đạt Đa
Chương 3: SỰ BẤT ĐỒNG VÀ PHẢN KHÁNG TRONG HỘI ĐỒNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO ĐỆ NHẤT
I. Quan điểm chung
II. Quan điểm của các học giả phương Tây về Giáo hội đệ nhất
– Quan điểm phê phán của Finot và Obermiller về quan điểm của Oldenberg
– Thẩm định quan điểm của Finot
– Nghiên cứu về giả thuyết của Oldenberg
– Quan điểm của Poussin về Giáo hội đệ nhất
– Sự phê phán trong quan điểm của Poussin
III.Quan điểm truyền thống về Giáo hội đệ nhất
– Sơ lược tiểu sử Tăng thống
– Nguyên nhân tổ chức Giáo hội đệ nhất
– Sự loại bỏ ngài A Nan
– Những lỗi nhỏ của ngài A Nan
– Sự kiện Kiều Phạm Ba Đề
IV.Biên bản lưu của Giáo hội
– Tứ binh luật kinh
– Ngũ giáo luật kinh
– Kinh luật tạng
V. Những người biệt giáo
Chương 4: SỰ BẤT ĐỒNG VÀ PHẢN KHÁNG TRONG HỘI ĐỒNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO ĐỆ NHỊ
I. Quan điểm chung
II. Lịch sử Giáo hội Phật giáo đệ nhị
III. 10 điều luật trong kinh Pali và Tây Tạng
– Tiểu sự luật
IV.Quan sát về 10 điều luật
V. Vài điều khó hiểu trong Giáo hội – động cơ đứng sau Giáo hội
– Nghi vấn về ban lãnh đạo Giáo hội và quan điểm của các học giả về tính lịch sử
VI. Đại Thiên – người phản kháng
Chương 5: KIỂM TRA LẠI CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ SỰ TIẾP CẬN VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ LY GIÁO TRONG THỜI CỔ ĐẠI ẤN ĐỘ
I. Quan điểm chung
II. Phân tích việc thành lập kinh Pali và Đại thừa
– Cấu trúc của Kinh Pali
– Sự thành lập Kinh Đại thừa
– Phật kinh và Đại thừa kinh
III.Phương pháp được đề nghị để tiếp cận người phản kháng trong đạo Phật thời Ấn Độ cổ đại
Chương 6: KẾT LUẬN




Lời cám ơn chân thành của
tôi xin gởi đến:

- Giáo sư K.T.S Sarao
- Thượng tọa TS. Satyapala, Trưởng khoa Phật Học, Đại học Delhi.
- HT. Thích Từ Mẫn, vị ân sư.
- Cố TT. Thích Minh Lãm.
- Tăng chúng Việt Nam.
- Các huynh đệ, và tất cả những người bạn, người thân yêu mà tôi không thể kể hết,
đã giúp tôi trên con đường tu học.
Nguyện tất cả chúng ta đều trọn thành Phật đạo.
Delhi, tháng Ba năm 2004,
Tỳ Kheo Thích Nghiêm Quang
– Trần Đông Nhật.

Lời giới thiệu
Trong bất cứ một cộng đồng nào đều có nhiều tầng lớp khác nhau, nhiều chủng loại con người khác nhau sống cùng trong đó, thì chắc chắn luôn có sự hiện diện của nhiều mặt tư tưởng khác nhau, phát sinh nhiều vấn đề liên quan.
Vì vậy để gìn giữ một cuộc sống yên bình cho một cộng đồng, con người phải có nhiều phương pháp để hòa giải mọi sự khác biệt. Xuyên suốt trong lịch sử của loài người, đã có rất nhiều lời đề xuất để giải quyết, thậm chí phải sử dụng đến phương sách bạo động, chẳng hạn như chiến tranh, xung đôt nhằm giải quyết sự khác biệt.
Trong tập sách này, Đại Đức Tiến sĩ Thích Nghiêm Quang đã mạnh dạn tìm đến và nghiên cứu một phương cách mà đạo Phật đã sử dụng trong lịch sử sinh thành để giải quyết những vấn đề như vậy. Đây là một công trình nghiên cứu có thể là đầu tiên về những sự chống đối và phản kháng, đặc biệt trong cộng đồng Phật giáo. Tôi cho rằng sự nghiên cứu này cho ra một giá trị, đồng thời cũng là tiếng nói gợi mở về một thách thức lớn lao cho thế giới tiến bộ của chúng ta ngày nay từ những chân lý mà Đức Phật và đạo Phật đã tạo ra cùng lịch sử con người. Mong sao: Bình yên cho mỗi người và cho mọi người là hạnh phúc và đạo lý của tất cả chúng ta.
Với những vấn đề nêu trên, tôi thành thật muốn chia sẻ những suy xét cẩn trọng, và những điều thú vị trong tác phẩm này đến với bạn đọc.
Sài Gòn, tháng 10 năm 2008,
Giáo Sư – TS. LÊ MẠNH THÁT
Phó Viện Trưởng, Học viện Phật giáo Việt Nam.


Lời nói đầu
Đạo Phật là một tôn giáo toàn cầu, sống động đầy tính khoa học mà chưa có một tôn giáo nào có thể vượt qua. Một tôn giáo không mang tính riêng lẻ khi đem lại lợi ích cho toàn nhân loại.
Sau khi giác ngộ, đức Phật đã đi khắp Ấn Độ trong 45 năm để thuyết giảng giáo pháp mà Người đạt được. Lời dạy của Người được lưu giữ trong Tam Tạng Kinh. Đức Phật đã mang hòa bình đến cho Ấn Độ, một xã hội đầy chia rẽ, mâu thuẫn và nhiều đẳng cấp trong thời đại phong kiến ở thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Lời dạy của Người là chánh Pháp luôn mang tính thực tế, xuyên suốt từ đó cho đến ngày nay. Từ nơi chánh Pháp, chúng ta có thể áp dụng để từ bỏ mọi điều xấu xa trong các lãnh vực xã hội, kinh tế, đạo đức, v.v…
Do tính lý thuyết trong sáng đó, đạo Phật trở thành một trường phái thanh cao, hài hòa, tượng trưng cho sự bình đẳng, dân chủ, và tự do ngôn luận. Lời Phật dạy không chỉ là triết lý căn bản mà còn là sự chỉ dẫn thực tiễn, khẳng định tầm quan trọng và hữu ích cho đời sống hàng ngày của chúng ta. Chỉ những người nào sống hết lòng với kinh Phật sẽ cảm nhận sự sâu sắc đó. Phương pháp tu tập của Người là quá trình tự quan sát và nghiên cứu. Triết lý của Người được miêu tả như một lời nhắc bảo: “Hãy đến để thấy” và “hãy nhận biết bằng chính mình”. Và do vậy, triết lý này được xem như là phương tiện giúp chúng ta đạt đến giác ngộ. Khi con người đã đạt đến mục đích tối thượng thì kinh Phật sẽ là một bè gỗ được bỏ lại phía sau.
Mục đích trình bày trong cuốn sách này là miêu tả những quan điểm khác nhau của sự phản kháng và chống đối trong đạo Phật ở thời cổ đại Ấn Độ. Giáo sư Sarao đã nói rằng: “Tách ra không có nghĩa là sa sút mà chính là phát triển”. Rõ ràng là chủ đề này rất rộng lớn so với sự hạn chế trong một cuốn sách, vì vậy tôi đã cố gắng nghiên cứu để trình bày với bạn đọc theo một cách có thể nhất. Tư liệu đều thu thập từ kinh điển truyền thống và kể cả các công trình nghiên cứu ở thời đại ngày nay.
Đạo Phật được nhận định là một tôn giáo không mang tính riêng lẻ và xa cách xã hội. Chúng ta có thể nhìn thấy kinh điển Phật giáo đã phản ánh sự thành lập và phát triển Tăng chúng. Ngay từ buổi ban đầu, tu sĩ Phật giáo có khuynh hướng xa rời xã hội. Tuy nhiên Đức Phật phản đối khuynh hướng này. Trong quá trình thành lập Tăng Già, Đức Phật đã tính đến địa lý, văn hóa, ngôn ngữ và các tầng lớp theo từng địa phương của các Tăng sĩ. Ngay khi Giáo hội vừa được phát triển thì trong tổ chức của Tăng Già đã bắt đầu rối ren, và mất đi tư tưởng chính thống của một tổ chức cộng đồng lý tưởng. Luật Tăng thống và luật Ly giáo là một chứng cứ.
Trong đó, sự chống đối và phản kháng của Đề Bà Đạt Đa ở thời Đức Phật và nguyên nhân chia rẽ trong Giáo hội. Sau đó là các luận điểm chính yếu sẽ được phân tích qua từng chi tiết trong cuốn sách này, cũng như các giới hạn của những nghiên cứu trước đây liên quan đến Giáo hội như là một biểu tượng của sự ly giáo hoặc sự chia rẽ trong Phật giáo.
Tôi cho rằng sự chống đối và phản kháng trong đạo Phật thời xa xưa là một biểu tượng dân chủ trong Tăng chúng. Quả là hợp lý để nói rằng đạo Phật là một tôn giáo có tổ chức đầu tiên đặt nền tảng trên nguyên tắc bình đẳng trong thời Ấn Độ cổ xưa.
Delhi, tháng Ba năm 2004,
Tỳ Kheo Thích Nghiêm Quang Kính bút.


Xem nội dung sách dưới dạng PDF: 
Những Quan Điểm Khác Nhau Trong Đạo Phật tác giả Đại ĐứcTiến Sĩ Thích Nghiêm Quang
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2015(Xem: 12081)
Pháp Tánh hay Pháp Tính có rất nhiều tên ví dụ như Thật Tướng Chân Như, Pháp Giới Tính, … Xin ghi ra đây trích đoạn bằng tiếng Anh để dễ so sánh, tìm ra ý nghĩa của nó. Pháp Tánh:
24/07/2015(Xem: 15920)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
19/07/2015(Xem: 10497)
Khi còn trong phiền não trói buộc thì Chơn Như là Như Lai Tạng. Khi ra khỏi phiền não thì Chơn Như là Pháp Thân. Trong Phật Tánh Luận chữ Tạng có 3 nghĩa như sau: 1/- Chân Như lập ra 2 nghĩa: - Hòa Hiệp: sanh ra tất cả các Pháp “nhiễm”. (2)- Không Hòa Hiệp: Sanh ra tất cả Pháp “thanh tịnh”. Tất cả các Pháp Nhiễm và Thanh Tịnh đều thuộc Như Lai Tạng, tức là Thâu Nhiếp Chơn Như, gọi là Như Lai Tạng. Tức là Chân Như thâu nhiếp tất cả Pháp. Hay gọi Như Lai Tạng là tất cả Pháp cũng cùng ý nghĩa đó.
02/07/2015(Xem: 15206)
Duy Thức học là môn học khảo cứu quan sát Tâm, hay gọi là môn học tâm lý Phật Giáo; nhưng cũng còn gọi là Pháp Tướng Tông, tức nghiên cứu hiện tượng vạn pháp. Như vậy Duy Thức Học cũng có thể gọi là môn học nghiên cứu vừa chuyên về Tâm vừa chuyên về Pháp. Thuộc về tâm, thì môn này đã tường tận phân định từng tâm vương, tâm sở; thuộc về pháp, thì lý giải khảo sát từ pháp thô đến pháp tế, từ hữu vi cho đến vô vi. Một môn học bao gồm hết thảy vấn đề, từ vấn đề con người cho đến vạn vật; từ chủ thể nhận thức đến khách thể là thế gian và xuất thế gian - môn học như vậy nhất định là môn học khó nhất để có thể am tường, quán triệt! Hơn nữa thế gian xưa nay, con người đã không ngừng nghiên cứu khoa học vật chất, mà vẫn chưa có kết quả thỏa đáng, nghĩa là vẫn mãi bận bịu đi tìm, vẫn mãi phát minh bất tận thì đâu còn thời gian và tâm lực để có thể nghiên cứu về Tâm về Thức.
01/07/2015(Xem: 23842)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 11042)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
24/06/2015(Xem: 30601)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 9608)
Bài Tâm Kinh Bát Nhã có tất cả 7 chữ 'Không" trong đó chữ "Không Tướng" đã được đề cập, ngay ở câu văn thứ ba: "Xá Lợi Tử! Thị chư pháp Không Tướng..."(Xá Lợi Tử ! Tướng Không của các pháp...). Nếu hiểu 'chư pháp' (các pháp) ở đây chính là các pháp đã vừa được nêu ra ở câu văn thứ nhì ("Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị") thì các pháp này chính là Ngũ Uẩn pháp và chính câu văn kinh thứ nhì này đã khai thị về Không Tướng (và cả Không Thể) của Ngũ Uẩn.
15/06/2015(Xem: 23364)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/06/2015(Xem: 6426)
Các thuật ngữ Shanshin, Daishin, Kishin, Roshin, Tenzo... trên đây là tiếng Nhật gốc Hán ngữ và đã được giữ nguyên trong bản gốc tiếng Pháp. Chữ Tenzo (nơi tựa bài giảng của Đạo Nguyên) là danh hiệu dùng để gọi người đầu bếp trong một ngôi chùa. Nói chung chữ "Tâm" (Shin) là một thuật ngữ chủ yếu và vô cùng quan trọng đối với Thiền Học nói riêng và Phật Giáo Đại Thừa nói chung, đặc biệt là ở các nước Á Châu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, thế nhưng lại là một thuật ngữ khá "mơ hồ" vì rất khó xác định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]