Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thức Biến Hiện, 100 Pháp Duy Thức (sách)

02/07/201517:02(Xem: 15208)
Thức Biến Hiện, 100 Pháp Duy Thức (sách)

Thuc Bien Hien_Thich Pho Huan


Mục Lục

Chương I - DUYÊN KHỞI TÌM HIỂU DUY THỨC.

Duyên khởi

Pháp thế gian và xuất thế gian.............................       15

Phân định một trăm pháp Duy Thức....................       20

Chương II – TÂM VƯƠNG

Tâm pháp……………………………………….       28

Tiền ngũ thức……………………………………      33

Ý thức………………………………………......       48

Mạt Na Thức…………………………………...        64

A Lại Da Thức………………………………....        73

Chương III – TÂM SỞ

Tâm sở....................................................................    91

Tâm sở Biến Hành..................................................    92

Tâm Sở Biệt Cảnh..................................................    97

Tâm Sở Thiện.........................................................     100

Tâm sở Căn Bản phiền Não....................................    109

Tâm sở Tùy Phiền Não...........................................    119

Tâm sở Bất Định ....................................................    130

Chương IV - SẮC PHÁP

Duyên khởi..............................................................   136

Sắc căn thân luôn tương hợp với sắc trần cảnh.......   144

Hữu đối sắc và Vô đối sắc.......................................   150

Chương V - TÂM BẤT TƯƠNG ƯNG....................            170

Chương VI - PHÁP VÔ VI.......................................           179

Chương VII - THỨC Ở ĐỊA VỊ PHÀM PHU..........           193

Năm thức trước......................................................... 194

Thức thứ sáu.............................................................  204

Thức thứ bảy............................................................   221

Thức thứ tám A Lại Da ........................................     228

Chương VIII – THỨC Ở ĐỊA VỊ THÁNH QUẢ....           235

Chương IX – BÀN LUẬN VỀ THỨC

A Lại Da Thức chỉ là vô số chủng tử! ..............         ....        252

Thức là gì?............................................................      262

Thức thứ Sáu quyết định tất cả cuộc đời..............      272

A Lại Da Thức: linh hồn, tâm hồn, tâm linh bí ẩn?    282

Hiểu biết qua nhân duyên tự biến và cộng biến!        293

Duy Thức và cuộc đời

Chân lý cuộc đời, chỉ là ba thứ biến hóa..............       304

Những cảnh giới chưa ý thức được!.....................      314

Mọi thứ đều liên hệ nhân quả!..............................      324

Tất cả đều do Thức!..............................................      334

Trần cảnh tướng mạo thế gian giả hay thật?........       342

Vạn pháp luân hồi qua bốn duyên........................      352

Có, Không của Cảnh, Thức trong Tục Đế

  và Thắng Nghĩa Đế................................................   364

Duy Thức và con người

Các pháp cũ và mới đối với phàm phu.................      374

Chúng sanh hiểu biết, và không hiểu biết..............     385

Hiểu biết không ra ngoài ba tánh...........................     395

Hiểu biết thế gian chỉ là ý thức phân biệt..............     410

Sanh tử là do chấp ngã pháp...................................    418

Thánh và Phàm ......................................................    428

Vấn đề ngã chấp và pháp chấp...............................    439

Học Duy Thức để chuyển nghiệp...........................    449

Duy Thức Học với pháp tu Thiền và Tịnh..............    470

Sách tham khảo                                  


 


DD Pho HuanLời tựa

 

Duy Thức học là môn học khảo cứu quan sát Tâm, hay gọi là môn học tâm lý Phật Giáo; nhưng cũng còn gọi là Pháp Tướng Tông, tức nghiên cứu hiện tượng vạn pháp. Như vậy Duy Thức Học cũng có thể gọi là môn học nghiên cứu vừa chuyên về Tâm vừa chuyên về Pháp. Thuộc về tâm, thì môn này đã tường tận phân định từng tâm vương, tâm sở; thuộc về pháp, thì lý giải khảo sát từ pháp thô đến pháp tế, từ hữu vi cho đến vô vi.

Một môn học bao gồm hết thảy vấn đề, từ vấn đề con người cho đến vạn vật; từ chủ thể nhận thức đến khách thể là thế gian và xuất thế gian  -  môn học như vậy nhất định là môn học khó nhất để có thể am tường, quán triệt! Hơn nữa thế gian xưa nay, con người đã không ngừng nghiên cứu khoa học vật chất, mà vẫn chưa có kết quả thỏa đáng, nghĩa là vẫn mãi bận bịu đi tìm, vẫn mãi phát minh bất tận thì đâu còn thời gian và tâm lực để có thể nghiên cứu về Tâm về Thức.

Tâm, Thức lại còn khó gấp vạn lần vật chất! Vì vật chất có thể thấy được, có thể chứng minh; nhưng tâm thì không thể thấy, và khó thể chứng minh! Khó chứng minh vì ngôn ngữ con người giới hạn, suy nghĩ con người lại bị câu thúc bởi tánh tham, sân, si, nên làm sao chứng minh được thật thể của tâm, là vô hình vô tướng vô tham, sân, si!

Như vậy với lý do chính đáng khó hiểu, mà môn Duy Thức học ít được phổ biến rộng rãi đến mọi tầng lớp Phật tử bình dân; và thường được xem là môn học nhằm trao dồi kiến thức Phật pháp hơn là thực hành cụ thể.

Chúng tôi là hàng hậu học, sở học không hơn hàng  bình dân, lại dám lạm bàn Duy Thức thì quả thật liều lĩnh đáng làm bậc trí thức ngờ vực!

Tuy nhiên mọi việc đều có nhân duyên nhân quả; việc dám luận bàn ý tưởng về môn học khó nhất này, chỉ duy nhất là muốn hiểu biết học hỏi, đem điều hiểu biết cạn cợt chia xẻ đến những người cùng trình độ, cùng tâm tưởng như chúng tôi. Lại thiết nghĩ Duy Thức Học là môn học dựa trên trí thức thế gian, cho nên chắc chắn rằng sẽ không phân biệt bình dân hay thức giả, miễn học hiểu tư duy để áp dụng vào đời sống, nhất là đời sống của người tu Phật.

Nội dung sách tạm chia làm hai phần, phần đầu từ chương Một đến chương Tám, tìm hiểu về Trăm Pháp Học Duy Thức, và phần hai cũng là phần cuối từ chương Chín đến hết, là những bài luận chia xẻ về cách nhìn, cách tư duy trong hoàn cảnh đời sống thế gian và con người, đối với môn Duy Thức Học. Những bài luận tuy mang chủ đề khác nhau, nhưng nội dung hay thường trùng lập, chỉ trừ khi giải thích luận bàn đặc ngữ chuyên môn danh từ Duy Thức.

Mong rằng quý độc giả xem đây như là quyển sách giới thiệu nhập môn Duy Thức, để trước khi có thể tìm đọc những tác phẩm Duy Thức chuyên môn và thâm sâu hơn; điều đó thật đúng với khả năng cũng như tâm ý người viết. Chúng tôi không dám nói nhiều, vì tất cả đã được trình bày trong sách.

Cuối cùng như tất cả nhân duyên, nhân quả, chúng tôi tuyệt đối phải ghi ân, ghi nhận những nhân duyên hoàn cảnh, môi trường mà chúng tôi đã được học, được tu trong tình đạo thân kính giữa Thầy Trò, Huynh Đệ. Chúng tôi lại không bao giờ dám quên ân nghĩa thâm tình sâu đậm của quý Phật tử Bổn Tự Pháp Bảo, và quý Phật tử địa phương cũng như từ tiểu bang khác, đã đóng góp tịnh tài ấn tống tác phẩm này. Lại quan trọng nữa, chúng tôi luôn luôn kính niệm tri ân, những tác giả, dịch giả mà chúng tôi đã tham khảo nghiên cứu và trích ghi sao lục, trong khi soạn viết quyển sách này. Và quan trọng hơn hết là những khuyết điểm, sơ xuất chắc chắn phải có trong tác phẩm; xin được ghi nhận học hỏi mọi lời chỉ giáo của chư vị độc giả thiện hữu tri thức.

Kính chúc tất cả chư vị luôn được an lành trong ánh từ quang của chư Phật.

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật.

Pháp Bảo Tự ngày 11/10/2011

TK. Thích Phổ Huân

pdf

Thức Biến Hiện, 100 Pháp Duy Thức – Thích Phổ Huân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2022(Xem: 36548)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 25303)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 21208)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 13374)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 14916)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15067)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 17737)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 16734)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
24/06/2021(Xem: 5030)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 21069)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]