Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sân hận làm khổ tôi

16/08/201306:58(Xem: 6446)
Sân hận làm khổ tôi

SÂN HẬN LUÔN LÀM KHỔ TÔI

JAN WILLIS - NGUYỄN VĂN NGHỆ dịch

san-han-300x277Trong số tất cả những cảm xúc tiêu cực tai hại của chúng ta, sân hận rõ ràng là cái càm xúc nguy hiểm nhất vì nó không chỉ gây hại cho người khác mà có lẽ nó gây hại cho chính chúng ta nhiều nhất. Phật giáo từ xưa dạy chúng ta rằng để trở thành một chiến sĩ thật sự, một người chiến thắng, chúng ta phải đặc biệt khống chế được kẻ địch này. Phật giáo dạy ta rằng, một vị A-la- hán là một vị đã hoàn toàn diệt được những kẻ thù tham, sân, si (hay là lòng ham muốn, sân hận và sự ngu dốt) của mình và vị đó – khi diệt những kẻ thù đó – đã đập vỡ tan được chính cái cốt lõi và cái gốc của luân hồi, cái thế giới của khổ đau. 
Tại sao lại nói mạnh mẽ như vậy? Bởi vì trong tất cả mọi thứ trong thế giới luân hồi, chỉ có lòng sân hận là có duy nhất một ý định là làm hại chúng ta và người khác. Đó là cái bản chất và là lý do tồn tại của nó. Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva), một nhà thơ lớn của thế kỷ thứ 8 đã hiểu rất rõ điều đó. Trong tuyệt tác Bồ-tát hạnh, ở chương 6 nổi tiếng – ‘Nhẫn’– đoạn 7 và 8, Ngài đã viết:

Được những điều tôi không muốn, 

Và tất cả những điều cản trở ham muốn của tôi – 

Trong sự không như ý của tôi, cơn giận tìm được nhiên liệu.

Từ đó nó lớn lên và quật ngã tôi. Vì vậy tôi sẽ tiêu diệt hoàn toàn

Những gì nuôi dưỡng cái kẻ thù đó của tôi, 

Cừu nhân của tôi, kẻ chỉ có một mục đích duy nhất

Là làm tổn thương tôi, làm khổ tôi.

Sân hận không có mục đích nào khác hơn là làm khổ và làm tổn thương tôi.

Những cảm xúc tiêu cực như sân hận, thù hằn, ganh ghét, cao ngạo v.v. được gọi là những phiền não, nghĩa là những loại cảm xúc tấn công hoặc gây tai hại cho ta và cho người khác. Không có phiền não hiền lành. Không có một thứ phiền não nào là bất bạo động. Tất cả đều muốn làm tổn thương và làm hại và tên thủ phạm tồi tệ nhất trong những phiền não ấy là lòng sân hận. Vậy chúng ta hiểu như thế nào hay có thể hiểu được cái gọi là “sân hận chính đáng” không? Câu hỏi này là một câu hỏi thường được đặt ra cho tôi. Tôi tin rằng câu hỏi này được đặt ra cốt để khẳng định một cách mạnh mẽ rằng chắc hẳn phải có những ngoại lệ đối với cái ý niệm rằng sân hận là luôn tai hại; để gợi ý rằng trên thực tế, trong một số điều kiện nào đó, sân hận có thể là có ích, thậm chí là mang lại cho ta sức mạnh. Tôi có thể hiểu được lý do tại sao mà người ta có suy nghĩ như vậy. 

Chẳng hạn như người ta mong muốn không cho phép, một cách thụ động, một tình hình sai trái nào đó tiếp diễn. Nhưng ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng không đánh trả lại không có nghĩa, hoặc ít nhất là không nhất thiết có nghĩa là thụ động hay phục tùng. Hòa bình chủ nghĩa không có nghĩa là thụ động. Chúng ta có thể bất bạo động và vẫn chống lại. Thật vậy, chúng ta phải bất bạo động để có thể hoạt động hữu hiệu cho phúc lợi của chính mình và của những người khác. Chúng ta cần phải rõ ràng, sáng tạo và có tính đổi mới để có thể tạo ra sự thay đổi. Nhưng trong lúc rối trí do giận hờn và căm ghét, chúng ta không thể suy nghĩ rõ ràng được. Do đó những nỗ lực của chúng ta, hết lần này đến lần khác, cứ bị thất bại mãi. Tôi biết những chuyện này người ta đã nói nhiều và thành sáo mòn rồi. Tuy nhiên ở đây tôi nói xuất phát từ trải nghiệm của chính mình.

Lúc đang còn là một thiếu niên, tôi đã đi tuần hành cùng Mục sư Tiến sĩ Martin Luther King, Jr. trong Chiến dịch Nhân quyền Birmingham năm 1963. Đôi lúc tôi sợ mấy con chó bẹc-giê Đức của ông cảnh sát trưởng Bull Connor nhưng thường là tôi lấy làm hồ hởi vì có được cơ hội tham gia vào một phong trào vẻ vang về mặt đạo đức và tinh thần như thế. Dĩ nhiên, bất bạo động và tình thương chính là trọng tâm của phong trào. Mục tiêu của chúng tôi là một mục tiêu kép, vì chúng tôi muốn mang lại chiến thắng cho chính chúng tôi và cho cả những người chống lại chúng tôi. Và cuộc phản kháng hòa bình và bất bạo động đó rốt cuộc đã thành công khi trong năm tiếp sau đó Đạo luật Nhân quyền được phê chuẩn trở thành luật. Nhưng động lực nuôi dưỡng phong trào đó là bất bạo động và tình thương. Đó là tình thương yêu, không phải lòng căm thù.

Vài năm sau, tôi bị lôi kéo vào trong một tình huống làm cho tôi thấy rõ rằng giữ cho được cái tâm nhẫn nhục là rất khó. Tôi giận dữ, tôi như phát sốt, tôi giận đỏ mặt. Tôi hoàn toàn không kềm chế được và nói cụ thể là tôi giận sục sôi trong nhiều ngày, không ngủ được và đầu óc rối bời. Những lý do gây ra cơn giận của tôi không quan trọng, mặc dù người ta có thể gọi cơn giận của tôi là “chính đáng” và tôi cũng cho là vậy. Tuy nhiên, điều tôi biết rõ nhờ trải nghiệm của chính mình là những ngày giận dữ đó đau khổ lắm, cả về thể chất lẫn tinh thần. 

Tất cả cũng là vì cơn giận của tôi, kẻ thù của tôi chỉ có mục đích duy nhất là làm khổ tôi, làm tổn thương tôi. Cho dù chuyện xảy ra cho đối tượng giận dữ của bạn là gì đi nữa, bạn khổ sở vì sự giận dữ luôn làm tổn thương bạn. Nhưng làm sao chúng ta có thể diệt được cơn giận? Làm sao chúng ta có thể làm cho cơn giận, ngay cả cơn giận “chính đáng”, nguôi ngoai đi? Làm sao chúng ta chấm dứt được cái vòng luẩn quẩn của sự căm ghét? May thay, nhiều lời dạy của Đức Phật và riêng đối với tôi, một Phật tử Báp-tít, nhiều bài thuyết giáo của Mục sư Tiến sĩ Martin Luther King đã mang lại những phương pháp hữu hiệu để chiến thắng cơn giận, những phương pháp vốn thừa nhận rằng không có những giải pháp nhanh chóng cho những thói quen lâu đời này và rằng sự thay đổi cần phải có thời gian.

Trong tác phẩm Bồ-tát hạnhcủa Tôn giả Tịch Thiên, toàn bộ chương về “nhẫn nhục” được dành để đưa ra nhiều phương pháp khác nhau để đối phó và để làm nguôi ngoai cơn giận. Một số phương pháp liên quan đến việc “trao đổi cái ngã với người khác” hay quán xét mình khi ở trong hoàn cảnh của người khác. Một số phương pháp khác đòi hỏi chúng ta hãy nghĩ rằng chuyện gì xảy ra cũng do những nguyên nhân và điều kiện và phải nhận ra rằng những hành động trong quá khứ của chúng ta đã tạo ra cái hoàn cảnh hiện tại như thế nào. Một số phương pháp khác nữa yêu cầu chúng ta suy nghĩ về lợi lạc của những cảm xúc vụn vặt khi mà tất cả chúng ta đều sẽ chết; và các phương pháp khác, hình dung ra những niềm vui hơn là nỗi buồn ta có được khi tạo ra hạnh phúc cho người khác. Bồ-tát hạnh là một kiệt tác thơ ca làm xúc động lòng người.

Có lần Tiến sĩ King thuyết giảng một bài tập trung riêng về chủ đề “Yêu thương kẻ thù của bạn”. Ông mở đầu bằng câu nói, “Chắc hẳn không có lời khuyên răn nào của Đức Giê-su khó thực hiện hơn là lời dạy bảo “hãy yêu thương kẻ thù của con”. Tuy vậy, gọi Chúa Giê-su là một người có đầu óc thực dụng, ông tiếp tục nói rằng “trách nhiệm của những người Ki-tô giáo chúng ta là khám phá ý nghĩa của lời dạy bảo này và cố gắng thực hiện một cách thiết tha lời dạy này trong cuộc sống hằng ngày. Sau đó Mục sư King trình bày ba bước để thực hiện phương pháp yêu thương kẻ thù của mình. Ông ta nói trước hết “chúng ta phải phát triển và duy trì khả năng tha thứ”. Thứ hai là “chúng ta phải thừa nhận rằng hành động xấu xa của kẻ thù… không bao giờ hoàn toàn biểu lộ bản chất của người đó” và thứ ba là, chúng ta phải cố gắng hòa giải và “tranh thủ được thân tình và sự thấu hiểu (của kẻ thù)”. Rất đơn giản mà cũng đầy thách thức.

Tôi tin rằng điều vô cùng quan trọng trong hai cách tiếp cận nêu trên là sự hiểu biết rằng trong khi chính những cảm xúc dữ dội và thiếu đắn đo suy nghĩ của chúng ta khiến cho chúng ta phiền não, thì cách duy nhất để chế ngự những cảm xúc đó là phải dùng đến một sự phân tích hữu lý rộng rãi, cởi mở, bền bỉ và đầy tình thương yêu. Chúng ta phải sử dụng cùng lúc con tim và khối óc của mình.

Nguồn: Anger Always Hurts Me,Mandala Magazine, số tháng Bảy-tháng Chín năm 2011.

Jan Willis là Giáo sư môn Tôn giáo tại Wesleylan University, bang Connecticut, Hoa Kỳ. Bà đã nghiên cứu và giảng dạy về Phật học trong hơn bốn thập niên qua, là tác giả của nhiều cuốn sách về tôn giáo và tâm linh.

(Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 136)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2017(Xem: 8897)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
25/08/2017(Xem: 21345)
Bản Giác (sách pdf) tác giả: Tiến sĩ Lâm Như Tạng
21/06/2017(Xem: 7266)
* Trong vũ trụ có trùng trùng thế giới. Toàn Giác là bậc câu thông cùng vũ trụ, họ cùng một thể tánh với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ rồi “truyền thần” lại sự thấy biết đó. Để thấy rằng Đức Bổn sư không sáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn sống động từ vô thỉ dù Phật có ra đời hay không.
16/03/2017(Xem: 7928)
Trong nghi thức Cầu Siêu của Phật Giáo Việt Nam, ở phần Quy Y Linh, có ba lời pháp ngữ: “Hương linh quy y PHẬT, đấng PHƯỚC TRÍ VẸN TOÀN – Hương linh quy y PHÁP, đạo THOÁT LY THAM DỤC – Hương linh quy y TĂNG, bậc TU HÀNH CAO TỘT” (chơn tâm – vô ngã). Ba lời pháp ngữ trên chính là ba điều kiện, ba phương tiện siêu xuất, có năng lực đưa hương linh (thân trung ấm) được siêu lên các cõi thiện tùy theo mức độ thiện nghiệp nhiều,
13/03/2017(Xem: 5157)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực.
01/02/2017(Xem: 4184)
Một số tư tưởng Phật học sau đây cùng nói lên nghĩa của Ý Giáo : Ý tưởng mong muốn đem giáo Pháp giải thoát của Phật ra, giảng dạy cho mọi người được biết mà tu tập. Tâm thông đạt mọi khế lý, giáo nghĩa Phật pháp. Tự mình làm thầy lấy mình để sửa tâm. Tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hành giả vào đạo Phật để tìm con đường giải thoát
22/12/2016(Xem: 24546)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
13/11/2016(Xem: 8650)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 6459)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 4683)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567