Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 14: Liên hệ và cô lập

18/07/201102:02(Xem: 4157)
Chương 14: Liên hệ và cô lập

J. KRISHNAMURTI
TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
THE FIRST & LAST FREEDOM
Lời dịch: Ông Không –2010

CHƯƠNG XIV
LIÊN HỆ VÀ CÔ LẬP

Sống là trải nghiệm, trải nghiệm trong liên hệ. Người ta không thể sống trong cô lập; vì vậy, sống là liên hệ và liên hệ là hành động. Và làm thế nào người ta có được khả năng hiểu rõ sự liên hệ đó mà là sống? Liên hệ có nghĩa không những hiệp thông cùng những con người nhưng còn cả tiếp xúc mật thiết cùng những sự vật và những ý tưởng? Sống là liên hệ, mà được thể hiện qua tiếp xúc với những sự việc, với những con người và với những ý tưởng. Trong hiểu rõ sự liên hệ, chúng ta sẽ có khả năng gặp gỡ sự sống trọn vẹn, tổng thể. Vì vậy vấn đề của chúng ta không là khả năng – vì khả năng không tách khỏi sự liên hệ – nhưng trái lại hiểu rõ sự liên hệ, mà một cách tự nhiên, sẽ tạo ra khả năng của mềm dẻo cao độ, của thích ứng mau lẹ, của phản ứng nhạy bén.

Chắc chắn, liên hệ là một cái gương trong đó bạn khám phá được chính bạn. Nếu không có liên hệ bạn không hiện diện; hiện diện là có liên hệ; có liên hệ là sự hiện diện. Bạn hiện diện chỉ trong liên hệ; ngược lại, bạn không hiện diện, sự hiện diện không có ý nghĩa. Không phải vì bạn suy nghĩ bạn hiện diện, mà bạn hiện diện. Bạn hiện diện bởi vì bạn có liên hệ; và chính bởi không-hiểu rõ về liên hệ mới gây ra xung đột.

Hiện nay, không có hiểu rõ về liên hệ, bởi vì chúng ta sử dụng liên hệ chỉ như một phương tiện của thành tựu hơn nữa, chuyển đổi thêm nữa, trở thành thêm nữa. Nhưng liên hệ là một phương tiện của tự-khám phá, bởi vì liên hệ là hiện diện, nó là sự hiện diện. Nếu không có liên hệ, tôi không hiện diện. Muốn hiểu rõ về chính mình, tôi phải hiểu rõ về liên hệ. Liên hệ là một cái gương trong đó tôi có thể thấy về chính mình. Cái gương đó có thể hoặc bị biến dạng, hoặc nó có thể giống hệt ‘là’, đang phản ảnh cái là. Nhưng hầu hết chúng ta nhìn thấy trong liên hệ, trong cái gương đó, những sự việc chúng ta ưa thích nhìn thấy hơn; chúng ta không nhìn thấy cái là. Chúng ta lý tưởng hóa, tẩu thoát, chúng ta thích sống trong tương lai hơn là hiểu rõ liên hệ đó trong hiện tại tức khắc.

Bây giờ nếu chúng ta tìm hiểu sống của chúng ta, liên hệ của chúng ta với một người khác, chúng ta sẽ thấy rằng nó là một qui trình của cô lập. Chúng ta thực sự không quan tâm đến người khác; mặc dù chúng ta nói nhiều về nó, thật ra chúng ta không quan tâm. Chúng ta liên hệ với người nào đó chỉ lâu dài đến chừng nào liên hệ đó còn gây thỏa mãn cho chúng ta, lâu dài đến chừng nào nó còn cho chúng ta một chỗ ẩn náu, lâu dài đến chừng nào nó còn làm hài lòng chúng ta. Nhưng khoảnh khắc có một bực bội trong liên hệ mà sinh ra sự không-thoải mái trong chính chúng ta, chúng ta từ bỏ liên hệ đó. Nói cách khác, có liên hệ chỉ chừng nào chúng ta còn được thỏa mãn. Điều này có lẽ hơi hơi khó nghe, nhưng nếu bạn thực sự tìm hiểu sống của bạn rất cặn kẽ bạn sẽ thấy rằng nó là một sự kiện; và lẩn tránh sự kiện là sống trong dốt nát, mà không bao giờ có thể tạo ra sự liên hệ đúng đắn. Nếu chúng ta nhìn vào sống của chúng ta và quan sát sự liên hệ, chúng ta thấy nó là một qui trình của dựng lên sự kháng cự chống lại một người khác, một bức tường qua đó chúng ta nhìn và quan sát một người khác; nhưng chúng ta luôn luôn vẫn có bức tường đó và tiếp tục ở đằng sau nó, dù nó là một bức tường tâm lý, một bức tường vật chất, một bức tường kinh tế hay một bức tường quốc gia. Chừng nào chúng ta còn sống trong tách rời, đằng sau một bức tường, không có liên hệ với một người khác; và chúng ta sống khép kín bởi vì nó gây nhiều thỏa mãn hơn, chúng ta nghĩ nó an toàn nhiều hơn. Thế giới quá vỡ vụn, có quá nhiều bất hạnh, quá nhiều đau khổ, chiến tranh, hủy hoại, phiền muộn, đến độ chúng ta muốn tẩu thoát và sống trong những bức tường của sự an toàn của con người tâm lý riêng của chúng ta. Vì vậy, đối với hầu hết chúng ta sự liên hệ là một qui trình tách rời, và rõ ràng sự liên hệ như thế dựng lên một xã hội cũng tách rời. Đó chính xác là điều gì đang xảy ra khắp thế giới: bạn vẫn ở trong cô lập của bạn và duỗi bàn tay của bạn qua bức tường, gọi nó là chủ nghĩa quốc gia, tình huynh đệ hay cái gì bạn muốn, nhưng thật ra những chính phủ, những quân đội cai trị. Vẫn còn bám vào những giới hạn riêng của bạn, bạn nghĩ rằng bạn có thể tạo ra một thế giới thống nhất, một thế giới hòa bình – mà là điều không thể xảy ra được. Chừng nào bạn còn có một biên giới, dù là quốc gia, kinh tế, tôn giáo, hay xã hội, không thể có hòa bình trong thế giới là một sự kiện hiển nhiên.

Qui trình của cô lập là một qui trình của tìm kiếm quyền lực; dù rằng người ta đang tìm kiếm quyền lực cho cá nhân hay một quốc gia hay chủng tộc đều phải có sự cô lập, bởi vì chính ham muốn quyền lực, vị trí, là sự phân chia. Rốt cuộc, đó là điều gì mỗi người muốn, phải không? Anh ấy muốn một vị trí đầy quyền lực mà trong đó anh ấy có thể thống trị, dù ở nhà, ở văn phòng hay trong một chế độ quan liêu. Mỗi người đang tìm kiếm quyền lực, và trong đang tìm kiếm quyền lực anh ấy sẽ thiết lập một xã hội được đặt nền tảng trên quyền lực, thuộc quân đội, kỹ nghệ, kinh tế và vân vân – mà lại nữa điều đó quá rõ ràng. Trong chính bản chất của nó, sự ham muốn quyền lực không đang gây tách rời hay sao? Tôi nghĩ rất quan trọng phải hiểu rõ điều này. Bởi vì con người mà muốn thế giới hòa bình, một thế giới trong đó không có những chiến tranh, không có sự hủy diệt thảm khốc, không có sự đau khổ thê thảm, trên một mức độ vô hạn, phải hiểu rõ câu hỏi căn bản này, đúng chứ? Một con người biết thương yêu, tử tế, không có ý thức của quyền lực, và vì vậy một con người như thế không bị trói buộc vào bất kỳ quốc gia, bất kỳ lá cờ nào. Anh ấy không có lá cờ.

Không có sự việc như sống trong cô lập – không quốc gia, không con người, không cá nhân nào, có thể sống trong cô lập, tuy nhiên, bởi vì bạn đang tìm kiếm quyền lực trong quá nhiều cách khác nhau, bạn nuôi dưỡng sự cô lập. Người theo chủ nghĩa quốc gia là một tai họa bởi vì qua tinh thần quốc gia, ái quốc, anh ta đang dựng lên một bức tường của cô lập. Anh ấy đồng hóa với chính quốc gia của anh ấy đến độ anh ấy dựng lên một bức tường chống lại một người khác. Điều gì xảy ra khi bạn dựng lên một bức tường chống lại cái gì đó? Cái gì đó đang luôn luôn đập lại bức tường của bạn. Khi bạn kháng cự cái gì đó, chính sự kháng cự thể hiện rằng bạn xung đột với cái còn lại. Vì vậy chủ nghĩa dân tộc, mà là qui trình của cô lập, mà là kết quả của tìm kiếm quyền lực, không thể mang lại hòa bình cho thế giới. Con người mà là một người theo chủ nghĩa quốc gia và nói về tình huynh đệ là một người đang lừa dối; anh ấy đang sống trong một trạng thái của mâu thuẫn.

Liệu người ta có thể sống trong thế giới mà không có ham muốn quyền lực, vị trí, uy quyền? Rõ ràng, người ta có thể. Người ta thực hiện được điều đó khi người ta không đồng hóa chính người ta với cái gì đó to tát hơn. Đồng hóa với cái gì đó to tát hơn này – đảng phái, quốc gia, chủng tộc, tôn giáo, Thượng đế – là sự tìm kiếm quyền lực. Bởi vì chính bạn đang trống rỗng, đờ đẫn, yếu ớt, bạn thích đồng hóa chính bạn với cái gì đó to tát hơn. Ham muốn đồng hóa chính bạn với cái gì đó to tát hơn là ham muốn quyền lực.

Liên hệ là một tiến hành tự-bộc lộ, và, nếu không hiểu rõ về chính mình, những phương cách của cái trí và quả tim riêng của người ta, chỉ thiết lập một trật tự phía bên ngoài, một hệ thống, một công thức ma mãnh, chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Điều gì quan trọng là hiểu rõ về chính mình trong liên hệ với người khác. Vậy thì liên hệ trở thành không phải một qui trình của tách rời, nhưng một chuyển động mà trong đó bạn khám phá những động cơ riêng của bạn, những suy nghĩ riêng của bạn, những theo đuổi riêng của bạn; và chính khám phá đó là khởi đầu của giải thoát, khởi đầu của thay đổi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/12/2013(Xem: 17897)
Thành thật luận 成實論 (Satyasiddhi-śāstra) cũng gọi Tattvasiddhi Śāstra 16 quyển, hoặc 20 quyển, do Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) tạo luận, Cưu-ma-la-thập (Kumārạiva) dịch, Đàm Quỹ ghi chép, Đàm Ảnh chỉnh lý, trong khoảng đời Dao Tần, niên hiệu Hoằng Thùy thứ 13 đến 14 (411 ~ 412), thâu lục trong Đại Chính, Đại Tạng Kinh, Tập số 32, kinh số 1647.
17/12/2013(Xem: 16231)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”. Và bản nguyện của Phật là muốn khai thị cho chúng sanh ngộ nhập được tri kiến Phật của
17/12/2013(Xem: 8810)
Có sự phân giới của chúng sinh và không phải chúng sinh, và việc quan tâm đến các chúng sinh cùng hành vi tinh thần trong đời sống hằng ngày của chúng ta, cũng có những trình độ khác nhau. Khi chúng ta thức giấc, khi chúng ta mơ ngủ và khi chúng ta ở trong giấc ngủ sâu và rồi thì khi chúng ta bất tỉnh - ở tại mỗi giai tầng, có một trình độ sâu hơn của tâm thức. Rồi thì cũng ngay tại thời điểm lâm chung khi tiến trình của tan biến của tâm thức tiếp tục sau khi hơi thở chấm dứt - tại thời điểm ấy, lại có một trình độ thậm chí sâu hơn của tâm thức. Chúng ta không có kinh nghiệm của những gì xảy ra tại thời điểm lâm chung, nhưng chúng ta thật sự biết những gì là kinh nghiệm thức giấc và mơ ngủ và vào lúc ngủ sâu như thế nào.
16/12/2013(Xem: 14045)
Giới là sự khác biệt căn bản giữa người nam và người nữ, liên quan đến giới tính, đến vai trò và vị trí xã hội của họ. Vấn đề bình đẳng giới được nêu lên nhằm giải quyết sự thiệt thòi của phụ nữ vì bị đối xử phân biệt
14/12/2013(Xem: 35108)
Năm 2006, khi tôi viết thư xin phép Thiền sư Bhante H. Gunaratana để dịch quyển tự truyện cuộc đời ngài, Hành Trình Đến Chánh Niệm (Journey To Mindfulness), Thiền sư không những đã từ bi hoan hỷ cho phép, mà còn giới thiệu về quyển sách mới của ngài, Eight Mindful Steps To Happiness. Do duyên lành đó hôm nay bản dịch của quyển sách trên được đến tay độc giả với tựa Bát Chánh Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc.
13/12/2013(Xem: 13810)
Khi tâm được bình an, vắng lặng, nhìn lại bà con thân thuộc thì thấy mọi người đều mải mê lặn hụp trong đau khổ, trong vòng lẩn quẩn của thương ghét, từ đó khởi lên tình thương mà đạo Phật gọi là từ bi... Thương ghét
11/12/2013(Xem: 35083)
Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác là con nhà họ Đới ở Châu Ôn . Thuở nhỏ học tập kinh, luận và chuyên ròng về phép Chỉ quán của phái Thiên Thai. Kế, do xem kinh Duy Ma mà tâm địa phát sáng. Tình cờ có học trò của sư Huệ Năng là thầy Huyền Sách hỏi thăm tìm đến. Hai người trò chuyện hăng say.
10/12/2013(Xem: 22243)
Pháp Tướng Tông (Duy Thức Tam Thập Tụng) của Bồ Tát Thế Thân, Vu Lăng Ba giảng, cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
10/12/2013(Xem: 24212)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
03/12/2013(Xem: 57650)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]