Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần II

15/07/201100:46(Xem: 2821)
Phần II

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỢ HÃI [ON FEAR]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009 –
HarperSanFrancisco, A Division of HarperCollinsPublishers

PHẦN 2

Brockwood Park, 1 tháng chín 1979

Có những sợ hãi giấu giếm thật sâu mà bạn không biết được, và có những sợ hãi thuộc thân thể và tâm lý rõ ràng.

Có sợ hãi không-an toàn, không có công việc làm, hay có việc làm lại sợ hãi mất chúng, sợ hãi nhiều hình thức đình công khác nhau đang xảy ra, và vân vân và vân vân. Vậy là hầu hết chúng ta đều lo lắng, sợ hãi không hoàn toàn được an toàn phần thân thể và vật chất. Rõ ràng như thế, nhưng tại sao? Có phải bởi vì chúng ta luôn luôn đang tách rời chính chúng ta như một quốc gia, như một gia đình, như một nhóm người? Có phải tiến trình tách rời chầm chậm này – người Pháp đang tách rời chính họ, người Đức cũng vậy, và vân vân – dần dần đang tạo ra không-an toàn cho tất cả chúng ta? Chúng ta có thể quan sát nó, không chỉ phía bên ngoài? Bằng cách quan sát việc gì đang xảy ra phía bên ngoài, biết chính xác việc gì đang diễn tiến, từ đó chúng ta có thể bắt đầu tìm hiểu trong chính chúng ta. Ngược lại chúng ta không có những tiêu chuẩn; ngược lại chúng ta đang dối gạt chính chúng ta. Vậy là chúng ta phải bắt đầu từ phía bên ngoài và vận dụng hướng vào phía bên trong. Nó giống như thủy triều đang đi ra và đi vào. Nó không là một thủy triều cố định, nó luôn luôn đang chuyển động ra và vào.

Sự tách rời này, mà đã là sự diễn tả bộ lạc của mỗi con người, đang gây ra sự thiếu thốn thuộc vật chất của an toàn. Nếu người ta thấy sự thật của nó như một sự kiện, và không phải sự giải thích thuộc từ ngữ hay sự chấp nhận thuộc trí năng của một ý tưởng, vậy thì người ta không lệ thuộc vào bất kỳ nhóm người nào, bất kỳ quốc gia nào, bất kỳ văn hóa nào, bất kỳ tôn giáo có tổ chức nào, bởi vì tất cả chúng đều tách rời – Thiên chúa giáo, Tin lành giáo, Ấn độ giáo, và vân vân. Bạn sẽ thực hiện điều đó, như chúng ta đang bàn luận cùng nhau. Liệu bạn sẽ buông bỏ những sự việc giả dối, không là sự kiện, không có giá trị? Mặc dù chúng ta nghĩ chúng có giá trị, khi bạn quan sát, quốc tịch thực sự nuôi dưỡng những chiến tranh. Vì vậy liệu chúng ta có thể buông bỏ nó để cho thuộc vật chất chúng ta có thể tạo ra một hợp nhất của nhân loại? Và hợp nhất này chỉ có thể xảy ra qua tôn giáo, không phải tôn giáo giả tạo mà chúng ta có bây giờ. Tôi hy vọng tôi không đang xúc phạm bất kỳ người nào. Thiên chúa giáo, Tin lành giáo, Ấn độ giáo, Hồi giáo đều được đặt nền tảng trên tư tưởng, được sắp xếp vào chung bởi tư tưởng. Và điều mà tư tưởng đã tạo tác không là thiêng liêng, nó chỉ là tư tưởng, nó chỉ là một ý tưởng. Và bạn chiếu rọi một ý tưởng, biểu tượng hóa nó, sau đó tôn thờ nó. Trong biểu tượng đó, trong hình ảnh đó, trong nghi lễ đó, tuyệt đối không có gì là thiêng liêng. Và nếu người ta thực sự quan sát điều này, vậy thì người ta được tự do khỏi nó để tìm ra tôn giáo thực sự là gì, bởi vì việc đó có lẽ mang chúng ta lại cùng nhau.

Vậy là, chúng ta có thể thâm nhập những mức độ sâu thẳm hơn nữa của sợ hãi, mà là những sợ hãi tâm lý. Những sợ hãi tâm lý trong những liên hệ của chúng ta, những sợ hãi tâm lý liên quan đến thời gian, những sợ hãi về quá khứ – đó là, những sợ hãi về thời gian. Làm ơn, tôi không là một giáo sư, một học giả đang thuyết giảng rồi sau đó quay trở lại cuộc sống thối nát của anh ấy. Đây là cái gì đó rất, rất nghiêm túc, mà gây ảnh hưởng tất cả những cuộc sống của chúng ta, vì vậy làm ơn hãy trao trọn vẹn sự chú ý và ân cần của bạn. Có những sợ hãi trong liên hệ, những sợ hãi của không-chắc chắn, những sợ hãi của quá khứ và tương lai, những sợ hãi của không-biết, những sợ hãi của chết, những sợ hãi của cô độc, ý thức khốn khổ của một mình. Bạn có lẽ liên quan đến những người khác, bạn có lẽ có nhiều bạn bè, bạn có lẽ lập gia đình, bạn có lẽ có con cái, nhưng có ý thức của tách rời sâu thẳm này, ý thức của cô độc này. Đó là một trong những nhân tố của sợ hãi.

Cũng có sợ hãi của không thể thành tựu. Và sự ham muốn thành tựu mang theo cùng nó ý thức của thất vọng,và trong đó có sợ hãi. Có sợ hãi của không thể được tuyệt đối rõ ràng về mọi thứ. Vậy là có nhiều, nhiều hình thức của sợ hãi. Bạn có thể quan sát sợ hãi đặc biệt riêng của bạn, nếu bạn hứng thú, nếu bạn nghiêm túc. Bởi vì một cái trí sợ hãi, biết được hay không-biết được, có thể cố gắng thiền định, nhưng thiền định đó chỉ dẫn đến đau khổ thêm nữa, bại hoại thêm nữa, bởi vì một cái trí sợ hãi không thể thấy sự thật là gì. Chúng ta sẽ tìm ra liệu có thể tổng thể, trọn vẹn, được tự do khỏi sợ hãi trong tất cả chiều sâu của nó.

Bạn biết chúng ta đang thực hiện một công việc mà đòi hỏi một quan sát rất cẩn thận: quan sát sợ hãi riêng của người ta. Và bạn quan sát sợ hãi đó như thế nào là quan trọng nhất. Bạn quan sát nó như thế nào? Nó là một sợ hãi mà bạn đã ghi nhớ, rồi sau đó nhớ lại và quan sát nó? Hay nó là sợ hãi mà bạn không còn có thời gian để quan sát và thế là sợ hãi vẫn còn trong hiện tại? Hay cái trí không sẵn lòng để quan sát sợ hãi? Mà là điều đang thực sự xảy ra? Chúng ta không sẵn lòng quan sát, nhìn ngắm những sợ hãi riêng của chúng ta bởi vì hầu hết chúng ta đều không biết làm thế nào để giải quyết chúng? Hoặc chúng ta chạy trốn, tẩu thoát, hay phân tích, qua việc đó nghĩ rằng chúng ta sẽ loại bỏ được một sợ hãi, nhưng sợ hãi vẫn còn đó. Vậy là rất quan trọng phải tìm ra chúng ta quan sát sợ hãi đó như thế nào.

Chúng ta quan sát sợ hãi như thế nào? Đây không là một câu hỏi ngớ ngẩn bởi vì hoặc bạn quan sát nó sau khi nó đã xảy ra hoặc bạn quan sát nó khi nó đang xảy ra. Với hầu hết chúng ta sự quan sát diễn ra sau khi nó đã xảy ra. Lúc này, chúng ta đang hỏi liệu có thể quan sát sợ hãi khi nó nảy sinh. Đó là bạn bị sợ hãi bởi một niềm tin khác. Bạn bám vào một niềm tin rất chặt chẽ, vì vậy bạn bị sợ hãi điều này. Bạn có những niềm tin nào đó, những trải nghiệm nào đó, những quan điểm, những nhận xét, và những đánh giá nào đó. Khi người nào đó đang thách thức những điều này, liền có hoặc là sự kháng cự, dựng lên một bức tường chống lại nó, hoặc là bạn sợ hãi rằng bạn sẽ bị lật đổ niềm tin của bạn. Lúc này, liệu bạn có thể quan sát sợ hãi đó khi nó nảy sinh? Bạn đang làm nó chứ? Bạn quan sát sợ hãi đó như thế nào? Có sự công nhận của phản ứng mà bạn gọi là sợ hãi – bởi vì bạn đã có sợ hãi đó trước kia, ký ức của nó được lưu trữ lại, và khi sợ hãi nảy sinh bạn công nhận nó, đúng chứ? Vậy là bạn không đang quan sát nhưng đang công nhận.

Sự công nhận không làm tự do cái trí khỏi sợ hãi. Nó chỉ củng cố sợ hãi. Có hai nhân tố trong vận hành. Bạn cảm thấy rằng bạn khác biệt sợ hãi đó, và thế là bạn vận hành vào sợ hãi đó, kiểm soát nó, xua đuổi nó, lý lẽ nó, và vân vân. Đó có nghĩa bạn đang làm điều gì đó về sợ hãi đó, nhưng trong đó có một phân chia – cái tôi và sợ hãi đó – vậy là có xung đột trong phân chia đó. Ngược lại, nếu bạn nhìn ngắm, sợ hãi đó là bạn. Bạn không khác biệt sợ hãi đó. Nếu một lần bạn nắm được nguyên tắc rằng người quan sát là vật được quan sát, rằng sự kiện là người quan sát là sợ hãi đó, vậy thì không có sự phân chia giữa người quan sát và sợ hãi.

Vậy là, điều gì xảy ra? Chúng ta hãy theo dõi một chốc lát. Như chúng ta đã hỏi, chúng ta đang quan sát sợ hãi qua qui trình của ký ức, mà là sự công nhận, sự đặt tên? Từ đó, truyền thống nói hãy kiểm soát nó; truyền thống nói hãy chạy trốn nó; truyền thống nói hãy làm điều gì đó về nó để cho bạn không còn sợ hãi. Thế là truyền thống đã giáo dục chúng ta phải nói rằng ‘cái tôi’ khác biệt sợ hãi. Liệu bạn có thể được tự do khỏi truyền thống đó và quan sát sợ hãi đó? Liệu bạn có thể quan sát không có tư tưởng đã nhớ lại phản ứng mà đã được gọi là sợ hãi trong quá khứ? Nó đòi hỏi sự chú ý và khéo léo vô cùng trong sự quan sát. Trong quan sát, chỉ có trực nhận thuần túy, không có sự diễn giải của trực nhận đó bởi tư tưởng. Vậy thì sợ hãi là gì? Lúc này tôi đã quan sát người nào đó đang đe dọa niềm tin mà tôi giữ chặt, trải nghiệm mà tôi bám vào, sự khẳng định đã đạt được của tôi, và thế là sợ hãi nảy sinh. Trong quan sát sợ hãi đó, chúng ta đã đến được mấu chốt khi bạn quan sát mà không có sự phân chia.

Bây giờ, câu hỏi kế tiếp là: Sợ hãi là gì? Sợ hãi bóng tối, sợ hãi người chồng, người vợ, cô gái, hay bất kỳ điều gì; sợ hãi, giả dối hay thực sự, và vân vân. Tách khỏi từ ngữ, sợ hãi là gì? Từ ngữ không là sự việc. Người ta phải nhận ra điều này thật sâu thẳm. Từ ngữ không là sự việc.

Vậy là nếu không có từ ngữ, đó là gì mà chúng ta gọi là sợ hãi? Hay từ ngữ tạo ra sợ hãi? Từ ngữ tạo ra sợ hãi, từ ngữ là sự công nhận về cái gì đó đã xảy ra trước kia, mà chúng ta đã gọi là sợ hãi. Từ ngữ trở thành quan trọng. Giống như người Anh, người Pháp, người Nga, từ ngữ quan trọng cực kỳ cho hầu hết chúng ta. Nhưng từ ngữ không là sự việc. Vì vậy tách khỏi những diễn tả khác nhau của nó, sợ hãi là gì? Gốc rễ của sợ hãi là gì? Nếu chúng ta có thể tìm được gốc rễ của nó vậy thì những sợ hãi nhận biết được hay không nhận biết được có thể được hiểu rõ. Khoảnh khắc bạn có một trực nhận của gốc rễ, cái trí tầng ý thức bên ngoài và cái trí tầng ý thức bên trong không còn quan trọng. Chỉ còn trực nhận của nó. Gốc rễ của sợ hãi là gì? Sợ hãi về ngày hôm qua, một ngàn ngày hôm qua, sợ hãi về ngày mai, và về chết. hay sợ hãi về cái gì đó mà đã xảy ra trong quá khứ. Không có sợ hãi thực sự ngay lúc này. Làm ơn hãy hiểu rõ cẩn thận điều này. Nếu bỗng nhiên chết đến cho một người, nó kết thúc. Nó xong. Bạn bị một cơn đau tim và nó hết. Nhưng ý tưởng rằng một cơn đau tim sẽ xảy ra trong tương lai là sợ hãi. Gốc rễ của sợ hãi là thời gian, thời gian là một chuyển động của quá khứ, được bổ sung trong hiện tại, và tiếp tục trong tương lai? Toàn chuyển động này là nguyên nhân của sợ hãi, gốc rễ của nó?

Chúng ta đang hỏi, liệu tư tưởng, mà là thời gian, là gốc rễ của sợ hãi? Tư tưởng là chuyển động. Bất kỳ chuyển động nào đều là thời gian. Gốc rễ của sợ hãi là thời gian? Tư tưởng? Và liệu chúng ta có thể hiểu rõ toàn chuyển động của thời gian, cả tâm lý lẫn vật lý? Thời gian tâm lý là ngày mai, và vậy là ngày mai là gốc rễ của sợ hãi? Mà có nghĩa chúng ta đang nói về sống hàng ngày chứ không phải chỉ những lý thuyết. Liệu người ta có thể sống mà không có ngày mai? Hãy thực hiện nó. Đó là, nếu bạn có một đau đớn thân thể ngày hôm qua, hãy kết thúc đau đớn đó ngày hôm qua, và không mang nó sang ngày hôm nay rồi vào ngày mai. Chính mang nó sang là thời gian mới tạo ra sợ hãi.

Sợ hãi tâm lý có thể hoàn toàn kết thúc nếu bạn áp dụng điều gì đang được nói. Người đầu bếp có thể nấu món ăn tuyệt vời nhưng nếu bạn không đói, nếu bạn không ăn nó, vậy thì nó vẫn ở trên thực đơn và không có giá trị gì cả. Nhưng nếu bạn ăn nó, áp dụng nó, thâm nhập vào nó cho chính bạn, bạn sẽ thấy rằng sợ hãi tâm lý có thể kết thúc tuyệt đối, để cho cái trí được tự do khỏi gánh nặng khủng khiếp mà con người đã mang.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2022(Xem: 12476)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6656)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8790)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7810)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 31764)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 20276)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16687)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10617)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11748)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12208)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567