Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Saanen, 2 tháng tám 1962

14/07/201100:46(Xem: 3298)
09. Saanen, 2 tháng tám 1962

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỢ HÃI [ON FEAR]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009 –
HarperSanFrancisco, A Division of HarperCollinsPublishers

PHẦN I

Saanen, 2 tháng tám 1962

Tôi muốn nói về vấn đề gì đó mà một số trong các bạn có lẽ không quen thuộc lắm và đó là vấn đề của làm trống không cái trí khỏi sợ hãi. Tôi muốn tìm hiểu nó khá sâu sắc, nhưng không trong chi tiết tỉ mỉ, bởi vì người ta có thể bổ khuyết những chi tiết cho chính người ta.

Liệu cái trí có thể tự-làm trống không chính nó hoàn toàn khỏi sợ hãi? Sợ hãi thuộc bất kỳ loại nào nuôi dưỡng ảo tưởng; nó làm cho cái trí đờ đẫn, nông cạn. Nơi nào có sợ hãi, chắc chắn không có tự do, và nếu không có tự do không có tình yêu. Và hầu hết chúng ta đều có hình thức nào đó của sợ hãi: sợ hãi bóng tối, sợ hãi quan điểm quần chúng, sợ hãi rắn rết, sợ hãi đau đớn thân thể, sợ hãi tuổi già, sợ hãi chết. Chính xác chúng ta có hàng tá sợ hãi. Và liệu có thể hoàn toàn được tự do khỏi sợ hãi?

Chúng ta có thể hiểu sợ hãi tác động ra sao đối với mỗi người chúng ta. Nó làm cho người ta nói dối, nó làm hư hỏng con người trong những cách khác nhau, nó làm cho cái trí trống rỗng, nông cạn. Có những ngõ ngách tối tăm trong cái trí mà không bao giờ có thể được tìm hiểu hay được phơi bày chừng nào người ta còn sợ hãi. Tự-bảo vệ thân thể, sự thôi thúc của bản năng để tránh xa con rắn độc, lùi xa vách núi đứng, không rơi dưới gầm xe điện, và vân vân, là khôn ngoan, bình thường, lành mạnh. Nhưng tôi đang nói về tự-bảo vệ tâm lý mà làm cho người ta sợ hãi bệnh tật, chết chóc, một kẻ thù. Khi chúng ta tìm kiếm sự thành tựu trong bất kỳ hình thức nào, dù qua hội họa, qua âm nhạc, qua liên hệ, hay qua bất kỳ điều gì bạn muốn, luôn luôn có sợ hãi. Vì vậy, điều gì quan trọng là phải tỉnh thức được toàn qui trình này trong chính người ta. Quan sát, học hỏi về nó, và không hỏi làm thế nào để loại bỏ nó. Khi bạn chỉ muốn loại bỏ sợ hãi, bạn sẽ tìm những phương cách và những phương tiện của tẩu thoát khỏi nó, và thế là không bao giờ có tự do khỏi sợ hãi.

Nếu bạn suy xét sợ hãi là gì và làm thế nào để tiếp cận nó, bạn sẽ thấy rằng với hầu hết chúng ta từ ngữ còn quan trọng nhiều hơn sự kiện. Ví dụ như từ ngữ cô độc. Qua từ ngữ đó tôi có ý nói ý thức của tách rời mà bỗng nhiên ập vào người ta chẳng vì lý do nào cả. Tôi không hiểu liệu điều này đã từng xảy ra cho bạn. Mặc dù bạn có lẽ được vây quanh bởi gia đình của bạn, bởi những người hàng xóm của bạn, mặc dù có lẽ bạn đang dạo bộ cùng bạn bè hay đang ngồi trên một chiếc xe buýt đông người, bỗng nhiên bạn cảm thấy hoàn toàn tách rời. Từ ký ức của trải nghiệm đó, có sợ hãi của cô lập, của cô độc. Hay bạn quyến luyến người nào đó mà bị chết, và bạn phát giác mình bị bỏ lại một mình, cô độc. Bởi vì cảm thấy ý thức của cô độc đó, bạn tẩu thoát khỏi nó bằng phương tiện của radio, rạp chiếu phim, hay bạn nương nhờ tình dục, nhậu nhẹt, hay bạn đi nhà thờ, tôn thờ Thượng đế. Dù bạn đi nhà thờ hay dùng một viên thuốc nó là một tẩu thoát, và mọi tẩu thoát về cơ bản đều giống hệt nhau.

Bây giờ, từ ngữ cô độc ngăn cản chúng ta không thâm nhập vào một hiểu rõ hoàn toàn của trạng thái đó. Từ ngữ, được kết hợp với trải nghiệm quá khứ, khơi dậy cảm giác của nguy hiểm và tạo ra sợ hãi; thế là, chúng ta cố gắng tẩu thoát. Làm ơn hãy tự quan sát bạn như trong một cái gương, đừng chỉ lắng nghe tôi, và bạn sẽ thấy rằng từ ngữ có một ý nghĩa lạ lùng cho hầu hết chúng ta. Những từ ngữ như Thượng đế, công sản, địa ngục, thiên đàng, cô độc, người vợ, gia đình – chúng đã có một ảnh hưởng kinh ngạc vào chúng ta như thế nào. Chúng ta là những nô lệ cho những từ ngữ như thế, và cái trí mà là một nô lệ cho những từ ngữ không bao giờ được tự do khỏi sợ hãi.

Để nhận biết và học hỏi về sợ hãi trong chính người ta là không diễn giải cảm giác đó trong những từ ngữ, bởi vì những từ ngữ được kết hợp với quá khứ, với hiểu biết; và trong chính chuyển động của học hỏi về sợ hãi không từ ngữ, mà là không thâu lượm hiểu biết về nó, bạn sẽ phát giác có một đang làm trống không hoàn toàn cái trí khỏi tất cả sợ hãi. Điều này có nghĩa rằng người ta phải thâm nhập thật sâu thẳm vào chính người ta, xóa sạch tất cả những từ ngữ; và khi cái trí hiểu rõ toàn nội dung của sợ hãi và vì vậy được tự do khỏi sợ hãi, cả tầng ý thức bên ngoài lẫn bên trong, vậy là có một trạng thái của vô nhiễm. Với hầu hết những người Thiên chúa giáo, từ ngữ vô nhiễm đó chỉ là một biểu tượng; nhưng tôi đang nói về thực sự đang ở trong một trạng thái của vô nhiễm, mà có nghĩa không có sợ hãi, và thế là cái trí tuyệt đối chín chắn, tức khắc, không trải qua con đường của thời gian. Và điều đó chỉ có thể được khi có chú ý tổng thể, một tỉnh thức được mọi tư tưởng, mọi từ ngữ, mọi cử chỉ. Cái trí chú ý mà không có rào cản của những từ ngữ, mà không diễn giải, đánh giá, hay chỉ trích. Một cái trí như thế là một ngọn đèn cho chính nó; và một cái trí mà là một ngọn đèn cho chính nó không có sợ hãi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2015(Xem: 12150)
Pháp Tánh hay Pháp Tính có rất nhiều tên ví dụ như Thật Tướng Chân Như, Pháp Giới Tính, … Xin ghi ra đây trích đoạn bằng tiếng Anh để dễ so sánh, tìm ra ý nghĩa của nó. Pháp Tánh:
24/07/2015(Xem: 16002)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
19/07/2015(Xem: 10553)
Khi còn trong phiền não trói buộc thì Chơn Như là Như Lai Tạng. Khi ra khỏi phiền não thì Chơn Như là Pháp Thân. Trong Phật Tánh Luận chữ Tạng có 3 nghĩa như sau: 1/- Chân Như lập ra 2 nghĩa: - Hòa Hiệp: sanh ra tất cả các Pháp “nhiễm”. (2)- Không Hòa Hiệp: Sanh ra tất cả Pháp “thanh tịnh”. Tất cả các Pháp Nhiễm và Thanh Tịnh đều thuộc Như Lai Tạng, tức là Thâu Nhiếp Chơn Như, gọi là Như Lai Tạng. Tức là Chân Như thâu nhiếp tất cả Pháp. Hay gọi Như Lai Tạng là tất cả Pháp cũng cùng ý nghĩa đó.
02/07/2015(Xem: 15302)
Duy Thức học là môn học khảo cứu quan sát Tâm, hay gọi là môn học tâm lý Phật Giáo; nhưng cũng còn gọi là Pháp Tướng Tông, tức nghiên cứu hiện tượng vạn pháp. Như vậy Duy Thức Học cũng có thể gọi là môn học nghiên cứu vừa chuyên về Tâm vừa chuyên về Pháp. Thuộc về tâm, thì môn này đã tường tận phân định từng tâm vương, tâm sở; thuộc về pháp, thì lý giải khảo sát từ pháp thô đến pháp tế, từ hữu vi cho đến vô vi. Một môn học bao gồm hết thảy vấn đề, từ vấn đề con người cho đến vạn vật; từ chủ thể nhận thức đến khách thể là thế gian và xuất thế gian - môn học như vậy nhất định là môn học khó nhất để có thể am tường, quán triệt! Hơn nữa thế gian xưa nay, con người đã không ngừng nghiên cứu khoa học vật chất, mà vẫn chưa có kết quả thỏa đáng, nghĩa là vẫn mãi bận bịu đi tìm, vẫn mãi phát minh bất tận thì đâu còn thời gian và tâm lực để có thể nghiên cứu về Tâm về Thức.
01/07/2015(Xem: 24251)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 11502)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
24/06/2015(Xem: 31316)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 9655)
Bài Tâm Kinh Bát Nhã có tất cả 7 chữ 'Không" trong đó chữ "Không Tướng" đã được đề cập, ngay ở câu văn thứ ba: "Xá Lợi Tử! Thị chư pháp Không Tướng..."(Xá Lợi Tử ! Tướng Không của các pháp...). Nếu hiểu 'chư pháp' (các pháp) ở đây chính là các pháp đã vừa được nêu ra ở câu văn thứ nhì ("Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị") thì các pháp này chính là Ngũ Uẩn pháp và chính câu văn kinh thứ nhì này đã khai thị về Không Tướng (và cả Không Thể) của Ngũ Uẩn.
15/06/2015(Xem: 23788)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/06/2015(Xem: 6471)
Các thuật ngữ Shanshin, Daishin, Kishin, Roshin, Tenzo... trên đây là tiếng Nhật gốc Hán ngữ và đã được giữ nguyên trong bản gốc tiếng Pháp. Chữ Tenzo (nơi tựa bài giảng của Đạo Nguyên) là danh hiệu dùng để gọi người đầu bếp trong một ngôi chùa. Nói chung chữ "Tâm" (Shin) là một thuật ngữ chủ yếu và vô cùng quan trọng đối với Thiền Học nói riêng và Phật Giáo Đại Thừa nói chung, đặc biệt là ở các nước Á Châu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, thế nhưng lại là một thuật ngữ khá "mơ hồ" vì rất khó xác định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]