Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Đại ý kinh Dược sư

11/01/201115:24(Xem: 5916)
06. Đại ý kinh Dược sư

THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

ĐẠI Ý KINH DƯỢC SƯ

Đức Từ phụ Thích-ca Mâu-ni của chúngta xuất hiện giữa thế giới Ta bà ác trược này, hóa thân tu hành chánh đạo chứngquả Bồ-đề, kiến lập đạo tràng thanh tịnh, nói vô lượng pháp môn chánh đáng, bảnhoài của Ngài là để cứu độ chúng sinh thoát vòng sanh, lão, bệnh, tử. Chẳngnhững Thích-ca như vậy, mà đức Phật A-di-đà hiện thân vào thế giới Tây gây dựngpháp tràng, nói pháp độ chúng sinh và đức Phật Dược Sư cũng hiện thân ở thếgiới Tịnh lưu ly phương Đông nói pháp độ chúng sinh, thoát vòng khổ não, anhưởng cảnh tịnh độ trong đời sau.

Nhưng xét đến chúng ta và các chúngsinh nhiều kiếp nhẫn lại đây chịu khổ luân hồi chỉ vì sanh tử: vì sanh tử màlàm chúng sinh, vì sanh tử mà đời trước làm trời nay trở lại làm người, nayhiện làm người mà sau lại làm trời, cho đến làm chúng sinh, địa ngục, ngạ quỷ,súc sanh, cho nên chúng sinh ba cõi rất lo sợ về sanh tử và cho sanh tử là mộtsự việc lớn lao khó giải quyết nhất. Chỉ có đức Phật thoát khỏi ngoài vòng sanhtử mới biết cách giải quyết được mà thôi.

Vì mục đích giúp cho chúng sinh giảiquyết sanh tử, nên trong thời giáo của đức Thích-ca, Ngài đều tùy căn cơ củachúng sinh nói nhiều pháp khác nhau và pháp ấy được chia làm nhiều hạng loại.Ngài vì hàng Nhân thừa mà nói ngũ giới, thập thiện để đối trị tội ngũ nghịch,thập ác. Vì chư Thiên mà nói bốn Thiền, tám định, đối trị bệnh tán loạn. Vìhàng Thanh văn, Duyên giác mà nói Tứ đế, Thập nhị nhân duyên để dứt trừ tham,sân, si, giải thoát sanh tử. Vì các hàng Bồ-tát dạy tu lục độ, vạn hạnh để dứttrừ vô minh hoặc và cứu độ chúng sinh... Đó là giáo pháp Phật dạy nhưng phải tựtu, tự chứng, bởi vì chúng sinh khởi niệm điên đảo gây ra nhiều đều tội lỗi, bềtrong đầy nghiệp chướng tham sân, kiêu mạn, bề ngoài bị nhiều tai nạn: đau ốm,đói rách, hình phạt điên cuồng. Khi sống mà tội lỗi tai ương như vậy, đến khigần chết bao nhiêu tư tưởng xấu đều phát khởi, cảnh giới khổ đau hiện bà, khóăn năn kịp. Cho nên, những người muốn luôn được hưởng cảnh an lành thì một làphải tự lực tạo nhơn lành, hai là nhờ lực hộ trì mới đặng.

Mà tha lực ấy là thật.

Lâu nay phần nhiều chuyên lo về việctiếp dẫn vãng sanh trong lúc lâm chung, nên thường tụng kinh Di-đà, niệm hiệuA-di-đà và công việc gì làm xong cũng cầu nguyện khi lâm chung nhờ Phật tiếpdẫn về cõi Cực lạc phương Tây.

Còn trong lúc sống thì chúng tathường bị ngoại duyên làm não hại, không thể không nhờ Phật hộ niệm mà đặng anlành, nên xin nhắc lại đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là một đức Phậtphát nguyện cứu độ chúng sanh trong khi các chúng sinh ấy còn sống mà gặp cáctai nạn. Nói đến đức Dược Sư tức là lược nói kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Laibổn nguyện công đức vậy.

Kinh Dược Sư này là một phương phápứng dụng hiện thời cho hết thảy chúng sinh ở cõi Ta-bà này, không luận hạngngười nào, ai cũng muốn sống lâu và muốn khỏi tai nạn để vui vầy ăn ở, thì cầnphải nhờ oai tạo tâm lành, vượt vòng ác kiến ma đạo mà tránh khỏi các tai nạn.

Kinh này là phương pháp tạo thànhcảnh Tịnh độ. Các đức Phật đều phát tâm rộng lớn tu hành cầu chứng Phật quả,phát nguyện rộng lớn cứu độ chúng sinh, mà cảm thành thế giới anlạc như đứcDược Sư nói trong kinh này. Nếu chúng ta tu hành mà phát nguyện độ sanh nhưNgài, một người tu như vậy, cho đến nhiều người cũng tu hành phát nguyện nhưNgài thì chắc chắn hiện tiền trong thế giới của chúng ta đang sống bớt tai nạnbinh đao, thậm chí không còn móng khởi tâm độc ác giết hại lẫn nhau, khôngnhững ít người chết yểu mà còn sống lành mạnh, bớt bịnh tật, cho đến sống lâuvô lượng, không còn nghe tiếng rên rỉ, than van của kẻ nghèo khổ, tật nguyềnv.v. tức là thiết lập thế giới Cực lạc ở tại cõi đời này vậy.

Do đó, đức Phật Thích-ca mới nóikinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai bổn nguyện công đức này. Thuộc đời Đường, TamTạng Pháp sư Huyền Trang dịch từ Phạn ra Hoa văn, xin tóm tắt như sau:

Kinh Văn chia ra làm ba phần:

Phần duyênkhởi
Phần chánh tông.
Phần lưu thông.

A. Phần duyên khởi

Một khi Phật với các đồ chúng: Támngàn vị Tỷ-kheo, Ba mươi sáu ngàn vị đại Bồ-tát cùng các vị quốc vương, cư sĩ,trời, người, ở trong thành Quảng Nghiêm. Phật theo lời thưa thỉnh củaMạn-thủ-thất-lợi (Văn-thù Bồ-tát) mà nói kinh này.

B. Phần chánh tông

Đoạn thứ nhất Ngài Mạn-thù-thất-lợidùng sức đại trí cầu chứng Phật đạo mà thỉnh Phật nói kinh này. Như trong kinhnói:

- Thưa Thế Tôn! Xin nguyện vì chúngcon mà diễn nói chủng loại danh hiệu và bổn nguyện công đức thù thắng của đứcPhật.

Đoạn thứ hai Ngài Mạn-thù-thất-lợiphát tâm đại bi giúp ích cho vô lượng chúng sinh mà thỉnh nói kinh này, vì thếnên Phật khen: "Hay thay, hay thay! Mạn-thù-thất-lợi. Ông vì lòng đại bidứt trừ nghiệp chướng trói buộc cho chúng sinh và làm lợi ích an vui cho cácloài hữu tình trong các đời tượng pháp sau này mà khuyến thỉnh Như lai diễn nóidanh hiệu và bổn nguyện công đức chư Phật".

Nhơn bổn ý của Mạn-thù-thất-lợi thưathỉnh lên, Phật mới vì ngài Mạn- thù và vì ích lợi chúng sinh đời sau mà nói rõquốc độ, bổn nguyện công đức của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như lai.

Phương Đông cách đây mưòi hằng sacõi Phật có thế giới gọi là Tịnh lưu ly rất trang nghiêm tốt đẹp; cung điệnbáu, bảy lớp hàng cây, ao sen báu, nước tám công đức v.v. đều do bảy món báutạo thành, thường thường tiếng nước chảy, tiếng chim kêu, tiếng cây rung, gióthổi đều diễn bày các phép tu hành và cõi ấy không có đàn bà con gái, không cótên ác đạo hoặc người thọ khổ. Tóm lại cõi ấy đều đủ các thứ công đức trangnghiêm, không khác cõi Cực lạc A-di-đà, nên Phật nói: "Cũng như thế giớiCực lạc phương Tây đủ công đức trang nghiêm không sai khác".

Lại nữa, trong cõi Tịnh lưu ly cóhai vị Bồ-tát lớn: Nhật Quang và Biến Chiếu thường giúp đức Dược Sư trong lúcNgài tu tập theo hạnh Bồ- tát đã phát 12 lời nguyện mà được cảm thành:

1. Nguyện khi Ta thành đạo Bồ-đề,thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, hào quang sáng khắp vô lượng thế giới, khiếncác chúng sinh cũng được như Ta.

2. Nguyện khi Ta thành Phật, trongngoài sáng chói hơn ánh sáng mặt trời, tự tại làm Phật, khiến các chúng sinh ởchỗ tối tăm đều nhờ ơn khai thị.

3. Nguyện khi Ta thành Phật, đầy đủvô lượng phương tiện trí tuệ, làm cho chúng sinh đầy đủ các món thọ dụng nơithân tâm.

4. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu cácchúng sinh tu theo tà đạo đều xoay về chánh đạo, hàng Nhị thừa thì đều hướng vềNhất thừa.

5. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu cóchúng sinh theo giáp pháp của Ta mà tu hành, thì đều được hoàn hảo, dù có phạmgiới mà nghe đến tên Ta thì cũng trở thành thanh tịnh giới khỏi phải sa vào ácđạo.

6. Nguyện khi Ta thành Phật, nếuchúng sinh nào có thân thể hèn yếu hay xấu sa, đui điếc hay câm ngọng, một phennghe tên Ta, niệm tên Ta thì được khỏi bệnh, lại được tốt đẹp khôn ngoan

7. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu cóchúng sinh không bà con thân thuộc, nghèo thiếu ốm đau, không ai giúp đỡ, mànghe được tên Ta thì thân tâm yên lành quyến thuộc giúp đỡ cho, đến chứng đạoBồ-đề.

8. Nguyện khi Ta thành Phật, các nữnhân thường bị khinh dể thấp kém, nếu nghe được tên Ta thì bỏ thân nữ nhân,thành tướng trượng phu cho đến chứng quả.

9. Nguyện khi Ta thành Phật, thì cácchúng sinh thoát vòng ma đạo ác kiến, về nơi chánh đạo, tu Bồ-tát hạnh mauchứng đạo Bồ-đề.

10. Nguyện khi Ta thành Phật, nếuchúng sinh bị pháp vua trừng trị, trói buộc đánh đập, giam vào ngục tối, cắt xẻv.v. mà nghe tên Ta thì đều thoát khỏi.

11. Nguyện khi Ta thành Phật, nhữngchúng sinh bị đói khát, cầu ăn mà tạo nghiệp dữ, nếu nghe tên Ta, chuyên niệmthọ trì, thì Ta trước hết cấp cho món ăn được no đủ, sau nói pháp khiến họ tuhành được hoàn toàn an vui.

12. Nguyện khi Ta thành Phật, nhữngchúng sinh nghèo không có áo mặc, muỗi mòng chích đốt, nóng lạnh, ngày đêm khổsở, nếu nghe tên Ta chuyên niệm thọ trì, thì Ta theo tâm mong cầu ấy khiến đượcđầy đủ y phục hoa hương.

Đó là lược kể 12 bổn nguyện của đứcDược Sư, nhưng còn bao nhiêu công đức tu hành của Ngài thì không thể nói hết.Nên Phật nói: "Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai trong khi tu Bồ-táthạnh phát đại nguyện và công đức trang nghiêm của cõi Phật kia. Như lai dẫu hơnmột kiếp cũng không thể nói cùng được".

Vì nguyện lực như vậy, công đức tuhành như vậy, nên hễ chúng sinh ngu si, không tin việc thiện ác nhân quả tầmthường xen lẩn. Không bố thí cho ai, nếu có bố thí cho ai, nếu có bố thí chútít thì tâm thầm tiếc khổ sở như dao cắt xẻ thân... nhưng đã từng nghe danh hiệuđức Dược Sư thì dầu ở trong đuờng khổ cũng như ở sanh cõi người mà tu hành bốthí, dầu bỏ thân mạng cũng không thương tiếc.

Hoặc có người phá giới luật, oainghi, tâm kiêu mạn, bài bác Chánh pháp sẽ bị đoạ trong ba đường dữ, nếu nghetên đức Phật Dược Sư tức thì bỏ các hạnh xấu ác mà tu theo chánh pháp, cho đếnchúng sinh muốn sanh cõi trời, sanh làm chuyển luân thánh vương để đem thậpthiện dạy đời, muốn tiêu trừ bệnh tật, thọ mạng lâu dài, nếu nghe danh hiệu đứcDuợc Sư, chuyên tâm trì niệm kinh chú hoặc tạo tượng Dược Sư, dâng cúng hoahương tươi tốt tịnh tâm trì tụng kinh chú, đốt 49 ngọn đèn, hoặc để tâm chúnguyện vào trong vật uống ăn của người bệnh, tụng chú Dược Sư Quán đảnh chơnngôn 108 lần để cho họ dùng, nhất là 49 ngày ấy phải nhất tâm thọ trì 8 điềugiới trai, thân thường sạch sẽ, tâm thường vui vẻ, đối với các loài chúng sinh,khởi tâm từ giúp đỡ, khởi tâm bi cứu vớt, khởi tâm bình đẳng bố thí cho cácloài hữu tình, không làm tổn hại bất cứ chúng sinh nào và không khi nào giậnhờn... được như vậy trong tâm tự mình đã xoay đổi được tâm tàn ác độc hại, thìbao nhiêu tai chướng, những cảnh khốn khổ đều theo tâm ấy mà chuyển thành cảnhgiới toàn thiện, toàn mỹ, hằng ngày lại được các vị thiên Thần ủng hộ và nhờoai thần nguyện lực của đức Dược Sư mà cầu lành bệnh, cầu sống lâu đều được thoảnguyện.

Vì rằng đức Phật Dược Sư Lưu LyQuang Như Lai đã trải qua nhiều kiếp phát đại nguyện độ sanh, tu Bồ-tát hạnh,trong thời gian lâu xa ấy, Ngài dứt sạch những nghiệp chướng, báo chướng vàphiền não chướng, là một vị Pháp vương, không bị bất cứ một điều gì làm naonúng, những hạnh nguyện độ sanh luôn luôn cảm ứng với chúng sinh, nên tùy ýsanh vào những cảnh khổ, tối tăm làm một vị Luơng y dùng các phương tiện cứugiúp chúng sinh thoát vòng thân bệnh, nói pháp mẫu để cứu chúng sinh ra khỏivòng tâm bệnh... Do vậy, tùy theo hết thảy chúng sinh phát tâm nguyện cầsu mànguyện lực của Phật vẫn cảm ứng trùm khắp tất cả.

C. Phần lưu thông

Khi Phật nói kinh này rồi cả thínhchúng, Bồ-tát, Tỷ-kheo đều vui mừng và vâng giữ.

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn:

Nam mô, Bạt già phạt đế, bệ xát xãlũ rô-bệ lưu ly bát lạc bà - hát ra xà dã, đát tha yết đa dã - a ra hất đết,tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệt sát thệ, bệ sát xã -tam một yết đế, ta ha.

Nam-mô Dược Sư hội thượng PhậtBồ-tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/10/2024(Xem: 1003)
Thân-Khẩu-Ý (身-口-意; P: Kāya-Vacī-Mano; S: Kāya-Vak-Mana; E: Body-Speech-Thought) là 3 thứ tách biệt nơi con người, nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, Ý là yếu tố có sự tác động đến cả Thân và Khẩu. Nếu một hành động của Thân hay lời nói của Khẩu mà không có Ý tác động vào thì khó mà có kết quả.
19/10/2024(Xem: 840)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
14/10/2024(Xem: 1809)
Bầu không khí chính trị trên thế giới hiện nay đang nóng bỏng vì khuynh hướng độc tài, cực đoan, chia rẽ, hận thù và cuồng vọng không thua kém gì bầu khí quyển của địa cầu đang nóng dần lên do khí thải nhà kính gây ra. Cả hai đều do con người tạo ra và đều là thảm họa cho nhân loại! Nhưng thảm họa này không phải là điều không thể giải quyết được, bởi lẽ những gì do con người gây ra cũng đều có thể do con người ngăn chận và hóa giải được. Cụ thể là hàng chục năm qua, Liên Hiệp Quốc đã nỗ lực kêu gọi, bằng các nghị quyết, các quốc gia cố gắng thực hiện các biện pháp giảm khí thải nhà kính, với các chính sách cắt giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, gia tăng sản lượng xe chạy bằng điện năng, v.v… Dù kết quả chưa đạt được mức yêu cầu, nhưng cũng đã gây được ý thức và thể hiện quyết tâm của cộng đồng thế giới trong việc giải quyết thảm họa của khí thải nhà kính.
04/06/2024(Xem: 4487)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
27/05/2024(Xem: 1076)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế. Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.” Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.] Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ. Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
30/04/2024(Xem: 3335)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 3936)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3966)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 7957)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]