Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

VÀI SUY NGHĨ VỀ NGUYÊN NHÂN THỊNH SUY CỦA PHẬT GIÁO

25/05/201321:18(Xem: 4982)
VÀI SUY NGHĨ VỀ NGUYÊN NHÂN THỊNH SUY CỦA PHẬT GIÁO

buddha_lotus01


VÀI SUY NGHĨ VỀ NGUYÊN NHÂN

THỊNH SUY CỦA PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Chơn

Theo Phật giáo, sự thay đổi nào cũng đều có thể truy về quy luật nhân quả. Do đó, truy tìm nguyên nhân đưa đến sự thịnh suy và tìm kiếm giải pháp để duy trì sự cường thịnh và tránh sự suy vong của Phật giáo là một việc đáng làm, nhất là trong giai đoạn Phật giáo đang đối mặt với nhiều thách thức mới.


Là người học Phật, ai cũng biết vô thường là một trong ba pháp thuộc giáo lý Tam Pháp ấn (Vô thường, Khổ, Vô ngã theo Phật giáo Nam truyền hay Vô thường, Vô ngã, Niết-bàn). Nói đến vô thường là nói đến sự thay đổi hoặc là tốt hơn hay xấu hơn, phát triển hay suy vong, tiến bộ hay lạc hậu… Khi mọi sự vật hiện tượng tồn tại khách quan đều không thể thoát ra khỏi quy luật vô thường thì sự thịnh suy của một tổ chức như Phật giáo cũng là tất yếu. Theo Phật giáo, sự thay đổi nào cũng đều có thể truy về quy luật nhân quả. Do đó, truy tìm nguyên nhân đưa đến sự thịnh suy và tìm kiếm giải pháp để duy trì sự cường thịnh và tránh sự suy vong của Phật giáo là một việc đáng làm, nhất là trong giai đoạn Phật giáo đang đối mặt với nhiều thách thức mới. Trên tinh thần đó, người viết sẽ dựa vào phần trích dẫn của bài kinh Đại bát Niết-bàntrong kinh Trường bộđể phân tích lời Phật dạy về vấn đề liên quan. Bài viết cũng sẽ trích dẫn nguyên nhân đưa đến sự tiêu vong của Phật giáo ở Ấn Độ, sự suy yếu của Phật giáo Việt Nam sau thời Lý-Trần. Qua đó, một số đề xuất sẽ được đưa ra để tham khảo và thảo luận cùng với chư thiện hữu tri thức có ưu tư về vấn đề này trên tinh thần chia sẻ, học hỏi.

Sự thịnh suy theo kinhĐại bát Niết-bàn

Bài kinh mở đầu bằng việc đại thần của vua Ajatasattu (A-xà-thế) nước Magadha (Ma-kiệt-đà) tuân lệnh quốc chủ đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và trình bày ý vua muốn chinh phục và tiêu diệt dân chúng Vajji, nhằm lắng nghe tôn ý của Đức Thế Tôn như thế nào. Đức Phật không trả lời trực tiếp cho vị đại thần mà khéo léo hỏi thị giả A-nan đang hầu một bên về sinh hoạt của dân chúng Vajii. Bảy điều được Đức Phật nêu ra và khẳng định nếu chúng được tuân thủ thì sự cường thịnh sẽ có mặt. Nhân đó, Đức Phật dạy cho các thầy Tỳ-kheo bảy pháp làm cho chúng Tỳ-kheo cường thịnh, không bị suy giảm. Bảy pháp ấy gồm: “(1) thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo; (2) tụ họp, giải tán và làm việc Tăng sự trong niệm đoàn kết; (3) không ban hành những luật lệ trái giới luật, không hủy bỏ những luật lệ phù hợp giới luật, và sống đúng với những học giới đã được ban hành; (4) tôn kính, đảnh lễ, cúng dường các bậc Tỳ-kheo trưởng thượng và nghe theo lời dạy của họ; (5) không bị chi phối bởi tham ái đưa đến tái sanh; (6) thích sống những nơi nhàn tịnh; (7) tự thân an trú chánh niệm khiến các bạn đồng tu chưa đến muốn đến và đã đến được sống an lạc”. Bảy điều kiện trên có thể rút ngắn là thực hiện đời sống đoàn kết trong chúng, tôn trọng và sống đúng giới luật, tôn kính cúng dường bậc trưởng lão và thường tham vấn họ, xa lìa tham ái đưa đến tái sanh và luôn sống chánh niệm để làm cho bạn đồng tu được sống an lạc. Nói một cách khác, chúng Tỳ-kheo sẽ cường thịnh khi tập thể ấy sống theo giới luật, biết học hỏi bậc minh sư và có an lạc do hành trì lời Phật dạy. Ngược lại, sự suy giảm sẽ xuất hiện.

Sự thịnh suy của Phật giáo hầu như phụ thuộc vào hàng Tăng bảo. Trong giai đoạn kinh điển được lưu truyền bằng con đường truyền khẩu thì sự sống còn của Phật pháp hoàn toàn do Tăng bảo quyết định. Muốn tìm hiểu, học hỏi Chánh pháp tức nội dung tam tạng kinh điển, người ta phải tìm đến các Tăng Ni. Bởi vì, chính họ là những người thông thuộc kinh điển, người có hành trì và do đó là nguồn độc quyền và đáng tin cậy nhất. Cùng quan điểm này, Giáo sư Gombrich, một nhà nghiên cứu Phật giáo nổi tiếng nhận định: “Người ta chỉ có thể tiếp cận lời Phật dạy thông qua Tăng-già, những người duy trì và giảng giải lời dạy ấy”(1). Khi kinh điển được biên tập và lưu truyền bằng văn bản, người ta có thể tiếp cận giáo pháp bằng cách tự đọc kinh sách hay tìm học nơi các Tăng Ni. Tuy nhiên, hàng Tăng bảo, những người có học và có hành trì lời Phật dạy vẫn là nơi đáng tin cậy nhất. Sự hiện diện của những người xuất gia có hành trì đóng vai trò quan trọng và quyết định sự sinh tồn của Phật giáo bởi vì dù kinh điển vẫn còn nhưng không còn hàng Tăng bảo thì Phật giáo vẫn bị tiêu vong, ít nhất là đúng trong trường hợp ở Ấn Độ. Ta có thể nói rằng kinh điển không hoàn toàn bị tiêu hủy ở Ấn Độ ít nhất cho đến khi không còn bóng người xuất gia. Kinh điển tại Đại học Nalanda bị đốt cháy hoàn toàn không có nghĩa là không còn kinh điển bởi không có chứng cứ nào nói rằng chỉ có Nalanda lưu giữ kinh điển. Còn bao nhiêu trường đại học khác và nhiều tự viện cũng như hàng triệu gia đình Phật tử. Không lẽ tất cả họ không giữ một số kinh sách. Chắc chắn là kinh điển vẫn còn sau biến cố đau thương ấy nhưng không còn người kế thừa lưu giữ, tu tập và giảng dạy nên dần dần chúng bị hủy hoại theo thời gian. Như vậy theo nội dung trên, Phật giáo thịnh khi chúng Tỳ-kheo thịnh, Phật giáo suy giảm và tiêu vong khi chúng Tỳ-kheo suy và biến mất. Một câu hỏi đặt ra là tại sao Phật giáo có hai chúng gồm xuất gia và tại gia nhưng khi chúng xuất gia mất thì Phật pháp không được duy trì? Phật giáo là chỉ dành riêng cho hàng xuất gia chăng? Trước khi trả lời câu hỏi, chúng ta hãy tìm hiểu nguyên nhân Phật giáo suy vong ở Ấn Độ.

Nguyên nhân Phật giáo suy vong ở Ấn Độ

Trong bài “Vì sao Phật giáo suy tàn tại Ấn Độ”(2)do D.C Ahir một học giả người Ấn Độ viết và Trần Đức Phi Bằng dịch, tác giả đã đưa ra một số nguyên nhân sau:

Nguyên nhân bên ngoài gồm: Một là sự xung đột giữa Bà-la-môn giáo và Phật giáo. Hai là sự thù giận và ghét bỏ của các Bà-la-môn hành nghề tế lễ. Ba là Phật giáo không những bị mất sự ủng hộ của nhà cầm quyền mà còn bị đàn áp, phá hủy. Bốn là âm mưu tiêu diệt Phật giáo của người Hồi giáo. Năm là Phật giáo bị đồng hóa.

Nguyên nhân bên trong: Thứ nhất Tăng sĩ xao lãng việc tu tập, thờ ơ với sứ mệnh truyền bá Chánh pháp phụng sự xã hội, đánh mất sự giao hảo gần gũi với quần chúng. Thứ hai, Phật giáo không có tổ chức cư sĩ để giảng dạy, truyền bá và bảo vệ tôn giáo của mình. Do đó, họ chỉ đứng nhìnmà không giúp được gì khi các tu viện bị cướp phá, xúc phạm và các Tăng sĩ bị trục xuất hay giết hại. Thứ ba, thiếu vắng những nghi thức cho các sinh hoạt liên quan đến đời sống văn hóa, tập tục xã hội như hôn nhân, tang tế. Và cuối cùng là tín đồ mê tín dị đoan.

Theo tác giả, những nguyên nhân làm Phật giáo bị suy vong tại Ấn Độ không phải bên trong mà là bên ngoài. Chính sự đàn áp, giết hại, và phá hoại của Ấn Độ giáo và sau đó là Hồi giáo khiến cho Tăng sĩ bị giết, chùa chiền bị san bằng, kinh điển bị tiêu hủy đưa đến Phật giáo bị xóa sổ. Ông cũng bác quan điểm cho rằng Phật giáo suy tàn là do Tăng-già suy đồi vì điều đó chỉ ảnh hưởng đến việc truyền bá và duy trì Phật pháp hơn là suy vong. Người viết cũng đồng ý với quan điểm này. Tổ chức Phật giáo cho dù có suy đồi vẫn có những bậc chân tu, đạo đức cho quần chúng nương tựa. Nếu không có sự phá hoại của bên ngoài thì Phật giáo chỉ có thể thịnh hoặc suy giảm mà không thể suy tàn được.

Cũng theo Từ điển bách khoa toàn thư Phật giáo(Encyclopaedic Dictionary of Buddhism) xuất bản năm 1998, Samir Nath đưa ra 12 nguyên nhân làm cho Phật giáo suy vong. Trong đó, ông cũng chỉ liệt kê 3 nguyên nhân bên trong là sự suy thoái trong Tăng-già, sự chia rẽ trong Phật giáo, và thần tượng thờ phụng Đức Phật. Ba nguyên nhân này cũng chỉ làm cho Phật giáo thịnh hoặc suy giảm chứ không thể suy vong. Như vậy, quan điểm của Ahir được củng cố thêm. Để làm rõ hơn quan điểm này, ta tiếp tục xem trường hợp Phật giáo suy yếu ở Việt Nam.

Nguyên nhân Phật giáo Việt Nam suy yếu sau thời Lý, Trần

Phật giáo Việt Nam cũng trải qua thăng trầm, thịnh suy theo quy luật. Theo sử liệu, Phật giáo dưới hai triều đại Lý và Trần được thừa nhận là cực thịnh và được gọi là thời vàng son của Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên, điều không may mắn là Phật giáo đã không thể duy trì vị thế ấy. Từ cuối đời Trần trở đi, Phật giáo suy đồi và có lúc phục hưng nhưng chưa thể so bằng với Phật giáo dưới hai triều đại ấy. “Sự suy đồi ở đây không phải là Phật giáo đánh mất ảnh hưởng trong quần chúng mà là đánh mất vai trò lãnh đạo trí thức, văn hóa và chính trị”. Nguyên nhân ở đây cũng bao gồm bên ngoài và bên trong nhưng chủ yếu là từ bên trong. Nguyên nhân bên ngoài là vua chúa hết lòng ủng hộ Phật giáo như trước và các nhà Nho trí thức công kích Phật giáo. Tuy nhiên, nguyên nhân chính là do chùa chiền nhiều nên không thể quản lý tốt; Tăng chúng đông nhưng thiếu học; thành phần bất hảo trà trộn vào Tăng đoàn làm mất thanh danh; Tăng sĩ kiêu hãnh khi được cúng dường hậu hĩnh; chùa tượng quá nhiều gây lãng phí và gây ác cảm đối với các Nho gia; và do Phật giáo ỷ lại quá nhiều vào sự ủng hộ của thế quyền(3). Như vậy, tình trạng nội bộ của Phật giáo ở Việt Nam cũng có phần giống như tình trạng ở Ấn Độ nhưng Phật giáo Việt Nam không bị suy vong vì Phật tử Việt Nam đã thành công trong việc bảo vệ và chống lại sự đàn áp và âm mưu tiêu diệt của ngoại đạo cuồng tín và quá khích. Đó là điều may mắn và cũng là bổn phận của Phật tử Việt Nam. Có thể Phật tử Ấn Độ cũng đấu tranh bảo vệ Phật giáo nhưng họ đã không thành công.

Nhận xét và đề xuất

Từ những dẫn chứng trên, ta có thể suy ra rằng Phật giáo thịnh hay suy yếu và cuối cùng suy vong là do những nguyên nhân từ bên ngoài lẫn bên trong. Trong khi nguyên nhân bên trong chỉ có thể làm cho Phật giáo suy yếu thì nguyên nhân bên ngoài có thể làm Phật giáo suy vong. Khi đã xác định được nguyên nhân rõ ràng cụ thể rồi, người Phật tử cần phải tìm kiếm giải pháp thích hợp. Một câu hỏi lớn là tại sao tín đồ Phật giáo không thể bảo vệ tôn giáo cao quý của mình trước kẻ ngoại đạo tấn công và phá hoại?

Phật giáo được hiểu tổng quát bao gồm Phật, Pháp và Tăng, gọi chung là Tam bảo. Tăng-già nếu hiểu rộng ra phải bao gồm cả quần chúng cư sĩ vì ý nghĩa của chữ “Tăng” là hòa hợp chúng. Khi hàng Tăng bảo suy đồi tức đánh mất vai trò của họ về lãnh đạo văn hóa, chính trị xã hội và đánh mất sự ảnh hưởng đối với quần chúng thì ít ra Phật và Pháp bảo vẫn còn nguyên vẹn, nhất là thời kỳ văn bản đã được lưu truyền. Tuy nhiên với Phật giáo, hàng Tăng bảo không còn đồng nghĩa với Pháp bảo không còn và dẫn đến Phật bảo cũng mất. Phật giáo là tài sản chung của mọi người nhưng rõ ràng chính hàng Tăng bảo giữ quyền quyết định sự tồn vong của Phật giáo. Do đó, trước nhất và trên hết để bảo vệ Phật giáo và làm cho nó cường thịnh thì phải xây dựng hàng Tăng bảo cường thịnh theo tinh thần kinh đã nêu ở trên.

Tăng bảo cường thịnh là điều kiện cần, Phật tử cư sĩ phát tâm hộ trì Phật giáo mới là điều kiện đủ. Hàng Tăng bảo có thể làm cho Phật giáo thịnh hay suy nhưng họ không bao giờ làm cho Phật giáo biến mất. Nói cụ thể, họ không bao giờ tự đánh mất quyền lợi của họ. Vậy thì chỉ có kẻ bên ngoài làm Phật giáo suy vong trong đó có chính người Phật giáo. Thói thường, khi Tăng bảo suy đồi thì hàng cư sĩ quay lưng với Phật giáo và có thể theo đạo khác. Quần chúng Phật tử cư sĩ là lực lượng hộ trì quan trọng mà quay lưng thì Phật giáo suy yếu. Lúc ấy, ngoại đạo tấn công phá hoại, nhất là bằng vũ trang, thì Phật giáo không đủ nội lực chống trả để bảo vệ tôn giáo của mình. Ngày nay, các tôn giáo cạnh tranh khốc liệt để thu nhận tín đồ. Họ không từ thủ đoạn, thậm chí sát hại tín đồ đạo khác. Do vậy, hướng dẫn hàng cư sĩ tu học và có trách nhiệm với tôn giáo của mình là nhiệm vụ cần phải thực hiện ngay.

Như học giả Ahir đã nêu, “Phật giáo không có tổ chức cư sĩ để giảng dạy, truyền bá và bảo vệ tôn giáo của mình. Phật giáo cũng thiếu vắng những nghi thức cho các sinh hoạt liên quan đến đời sống văn hóa, tập tục xã hội như hôn nhân, tang tế…”. Do không có kế hoạch bài bản, cụ thể để đào tạo hàng cư sĩ cũng như không thiết lập nghi thức mang đậm nét Phật giáo để giáo hóa quần chúng, Phật giáo tự đánh mất vai trò của mình trong xã hội. Vì vậy, tạo dựng nét văn hóa Phật giáo trong tất cả các tập tục, lễ hội… cũng là điều cấp bách.

Kỷ niệm ngày đản sinh của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni không gì hơn là duy trì và truyền bá lời dạy của Ngài đến với mọi người. Bên cạnh tổ chức các hình thức kỷ niệm mang nét văn hóa Phật giáo, Phật tử cũng cần có chiến lược lâu dài. Xây dựng hàng Tăng bảo vững mạnh, đào tạo hàng cư sĩ có thể hoằng pháp và có trách nhiệm bảo vệ Phật giáo, và thiết lập nền văn hóa Phật giáo trong tất cả các tập tục sinh hoạt cộng đồng là những hành động thiết thực cúng dường Đức Phật. Chiến lược này thành công, chắc chắn ngày Phật đản nơi nơi rợp cờ Phật giáo.

Chú thích

(1)Richard, F. Gombrich, Theravada Buddhism: a Social History from Ancient Benares to Modern Colombo, (New York: Routledge, 2006), p.72.

(2)http://quangduc.com/lichsu/90visaopgsuytan.html.

(3)Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử Lược, (Hà Nội: NXB. Văn Học, 2000), tr.479 - 482.

Thích Hạnh Chơn (Nguyệt San Giác Ngộ)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/03/2014(Xem: 11796)
Để thảo luận về vấn đề Hoà Bình theo quan điểm của Kim Cang Thừa ta cần tìm hiểu hai khái niệm Hoà Bình và Kim Cang Thừa cùng những truyền thống đặc sắc của Kim Cang Thưà. Trong phạm vi này, thì tìm hiểu tiến trình của Kim Cang Thưà trong mối quan hệ với các truyền thống Phật giáo khác và nhận thức về mối quan hệ gắn bó giữa Hoà bình và Kim Cang Thừa là vấn đề khả thi. Mặc dù Phật giáo Kim Cang Thừa có ở Trung Quốc, Nhật Bản và các nơi khác, nhưng tiểu luận sau đây sẽ đặt trọng tâm vào truyền thống Tây Tạng.
09/03/2014(Xem: 29822)
Ajahn Chah sinh năm 1918 trong một ngôi làng phía Bắc Thái Lan. Ngài xuất gia sa di từ lúc còn nhỏ và trở thành một vị tỳ khưu năm hai mươi tuổi. Ngài theo truyền thống hành đầu đà của các sơn tăng trong nhiều năm; hằng ngày mang bát xin ăn, chuyên tâm hành thiền và đi khắp nơi để truyền bá giáo pháp. Ajahn Chah hành thiền dưới sự chỉ dẫn của nhiều thiền sư danh tiếng
06/03/2014(Xem: 8515)
So với cấp “Phát tâm tín thành tựu” thì sự phát tâm của Bồ Tát Giải Hạnh nầy được minh thị bằng hai chữ “CHUYỄN THẮNG”. Nghĩa là chuyễn biến và thù thắng hơn trước. Luận viết: “Qua sự phát tâm của Giải Hạnh thì nên biết là đã trở thành thù thắng hơn. Vì Bồ Tát nầy từ sơ phát tâm Chánh Tín đến nay, khi a tăng kỳ kiếp đầu sắp hết, thâm giải pháp tánh chân như, tu phép Ly tướng. Vì biết thể của pháp tánh xa lìa xan tham, cho nên tùy thuận mà tu hành bố thí ba la mật. Vì biết pháp tánh không nhiễm ô, xa lìa tội lỗi ngũ dục, cho nên tùy thuận mà tu hành trì giới ba la mật. Vì biế
20/02/2014(Xem: 12344)
Trong kinh Pháp Cú, câu 103 Đức Phật có dạy: Người kia ở chiến trường Tuy thắng trăm muôn giặc, Chưa bằng thắng chính mình, Là chiến sĩ bậc nhất.
20/02/2014(Xem: 20014)
Chiều hôm nay, tôi đang ở trong cốc thì Thầy Viện Trưởng đến, Thầy gọi tôi và đưa cho tôi quyển sách này, Thầy nói: "Thầy thấy Từ Đức thích dịch sách của ngài Đạt Lai Lạt Ma nên Thầy mua quyển sách này, con đọc rồi dịch, khi nào xong thì đưa cho Thầy!" Tôi thích quá, thật khó tả. Tôi chỉ mĩm cười, khẻ nói "Dạ" và cầm lấy quyển sách. Thế là ngay hôm ấy tôi liền bắt tay vào dịch những dòng đầu tiên của quyển sách để lấy ngày, 20 – 11 – 2010.
20/02/2014(Xem: 8495)
Mỗi khi nổi giận ta thường cho rằng chính người kia là thủ phạm đã làm cho ta giận, như thể cơn giận đang ở trong ta là do họ đem tới vậy. Vì thế ta luôn tìm mọi cách để trả đũa, dù ít nhất là một câu nói hay một hành động khiến người kia phải đau điếng hay tức giận thì ta mới hả dạ. Ta cho rằng mình phải làm như thế thì mới mạnh mẽ, để họ không còn dám chọc giận mình nữa.
10/02/2014(Xem: 8629)
Tứ vô lượng tâm là bốn tâm vô biên, vô lượng, không có ngần mé, bao trùm tất cả chúng sanh. Tứ vô lượng tâm còn được gọi là bốn phạm trú (1) vì khi tu tập thành tựu
30/01/2014(Xem: 11479)
Trong cuộc sống hằng ngày đôi khi tâm con người trở nên giận dữ, không kiềm chế được nên đã biến thành thù hận, từ đó thường xảy ra những sự xung đột, ấu đả và có thể đi đến chỗ gây thương tích hay giết người không chút xót thương. Báo chí thường đăng quá nhiều tin tức về hậu quả xảy ra bắt nguồn từ những cơn giận dữ đủ loại.
25/12/2013(Xem: 6851)
Toàn tri toàn giác không thể được phát sinh mà không có nguyên nhân, bởi vì đâu phải mọi thứ luôn luôn là tòan tri toàn giác đâu. Nếu mọi thứ được sinh ra mà không liên hệ đến điều gì khác, chúng có thể tồn tại mà không có sự câu thúc - sẽ không có lý do tại sao mọi thứ không thể là toàn tri toàn giác.
20/12/2013(Xem: 36364)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]