Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

VÀI SUY NGHĨ VỀ NGUYÊN NHÂN THỊNH SUY CỦA PHẬT GIÁO

25/05/201321:18(Xem: 4969)
VÀI SUY NGHĨ VỀ NGUYÊN NHÂN THỊNH SUY CỦA PHẬT GIÁO

buddha_lotus01


VÀI SUY NGHĨ VỀ NGUYÊN NHÂN

THỊNH SUY CỦA PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Chơn

Theo Phật giáo, sự thay đổi nào cũng đều có thể truy về quy luật nhân quả. Do đó, truy tìm nguyên nhân đưa đến sự thịnh suy và tìm kiếm giải pháp để duy trì sự cường thịnh và tránh sự suy vong của Phật giáo là một việc đáng làm, nhất là trong giai đoạn Phật giáo đang đối mặt với nhiều thách thức mới.


Là người học Phật, ai cũng biết vô thường là một trong ba pháp thuộc giáo lý Tam Pháp ấn (Vô thường, Khổ, Vô ngã theo Phật giáo Nam truyền hay Vô thường, Vô ngã, Niết-bàn). Nói đến vô thường là nói đến sự thay đổi hoặc là tốt hơn hay xấu hơn, phát triển hay suy vong, tiến bộ hay lạc hậu… Khi mọi sự vật hiện tượng tồn tại khách quan đều không thể thoát ra khỏi quy luật vô thường thì sự thịnh suy của một tổ chức như Phật giáo cũng là tất yếu. Theo Phật giáo, sự thay đổi nào cũng đều có thể truy về quy luật nhân quả. Do đó, truy tìm nguyên nhân đưa đến sự thịnh suy và tìm kiếm giải pháp để duy trì sự cường thịnh và tránh sự suy vong của Phật giáo là một việc đáng làm, nhất là trong giai đoạn Phật giáo đang đối mặt với nhiều thách thức mới. Trên tinh thần đó, người viết sẽ dựa vào phần trích dẫn của bài kinh Đại bát Niết-bàntrong kinh Trường bộđể phân tích lời Phật dạy về vấn đề liên quan. Bài viết cũng sẽ trích dẫn nguyên nhân đưa đến sự tiêu vong của Phật giáo ở Ấn Độ, sự suy yếu của Phật giáo Việt Nam sau thời Lý-Trần. Qua đó, một số đề xuất sẽ được đưa ra để tham khảo và thảo luận cùng với chư thiện hữu tri thức có ưu tư về vấn đề này trên tinh thần chia sẻ, học hỏi.

Sự thịnh suy theo kinhĐại bát Niết-bàn

Bài kinh mở đầu bằng việc đại thần của vua Ajatasattu (A-xà-thế) nước Magadha (Ma-kiệt-đà) tuân lệnh quốc chủ đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và trình bày ý vua muốn chinh phục và tiêu diệt dân chúng Vajji, nhằm lắng nghe tôn ý của Đức Thế Tôn như thế nào. Đức Phật không trả lời trực tiếp cho vị đại thần mà khéo léo hỏi thị giả A-nan đang hầu một bên về sinh hoạt của dân chúng Vajii. Bảy điều được Đức Phật nêu ra và khẳng định nếu chúng được tuân thủ thì sự cường thịnh sẽ có mặt. Nhân đó, Đức Phật dạy cho các thầy Tỳ-kheo bảy pháp làm cho chúng Tỳ-kheo cường thịnh, không bị suy giảm. Bảy pháp ấy gồm: “(1) thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo; (2) tụ họp, giải tán và làm việc Tăng sự trong niệm đoàn kết; (3) không ban hành những luật lệ trái giới luật, không hủy bỏ những luật lệ phù hợp giới luật, và sống đúng với những học giới đã được ban hành; (4) tôn kính, đảnh lễ, cúng dường các bậc Tỳ-kheo trưởng thượng và nghe theo lời dạy của họ; (5) không bị chi phối bởi tham ái đưa đến tái sanh; (6) thích sống những nơi nhàn tịnh; (7) tự thân an trú chánh niệm khiến các bạn đồng tu chưa đến muốn đến và đã đến được sống an lạc”. Bảy điều kiện trên có thể rút ngắn là thực hiện đời sống đoàn kết trong chúng, tôn trọng và sống đúng giới luật, tôn kính cúng dường bậc trưởng lão và thường tham vấn họ, xa lìa tham ái đưa đến tái sanh và luôn sống chánh niệm để làm cho bạn đồng tu được sống an lạc. Nói một cách khác, chúng Tỳ-kheo sẽ cường thịnh khi tập thể ấy sống theo giới luật, biết học hỏi bậc minh sư và có an lạc do hành trì lời Phật dạy. Ngược lại, sự suy giảm sẽ xuất hiện.

Sự thịnh suy của Phật giáo hầu như phụ thuộc vào hàng Tăng bảo. Trong giai đoạn kinh điển được lưu truyền bằng con đường truyền khẩu thì sự sống còn của Phật pháp hoàn toàn do Tăng bảo quyết định. Muốn tìm hiểu, học hỏi Chánh pháp tức nội dung tam tạng kinh điển, người ta phải tìm đến các Tăng Ni. Bởi vì, chính họ là những người thông thuộc kinh điển, người có hành trì và do đó là nguồn độc quyền và đáng tin cậy nhất. Cùng quan điểm này, Giáo sư Gombrich, một nhà nghiên cứu Phật giáo nổi tiếng nhận định: “Người ta chỉ có thể tiếp cận lời Phật dạy thông qua Tăng-già, những người duy trì và giảng giải lời dạy ấy”(1). Khi kinh điển được biên tập và lưu truyền bằng văn bản, người ta có thể tiếp cận giáo pháp bằng cách tự đọc kinh sách hay tìm học nơi các Tăng Ni. Tuy nhiên, hàng Tăng bảo, những người có học và có hành trì lời Phật dạy vẫn là nơi đáng tin cậy nhất. Sự hiện diện của những người xuất gia có hành trì đóng vai trò quan trọng và quyết định sự sinh tồn của Phật giáo bởi vì dù kinh điển vẫn còn nhưng không còn hàng Tăng bảo thì Phật giáo vẫn bị tiêu vong, ít nhất là đúng trong trường hợp ở Ấn Độ. Ta có thể nói rằng kinh điển không hoàn toàn bị tiêu hủy ở Ấn Độ ít nhất cho đến khi không còn bóng người xuất gia. Kinh điển tại Đại học Nalanda bị đốt cháy hoàn toàn không có nghĩa là không còn kinh điển bởi không có chứng cứ nào nói rằng chỉ có Nalanda lưu giữ kinh điển. Còn bao nhiêu trường đại học khác và nhiều tự viện cũng như hàng triệu gia đình Phật tử. Không lẽ tất cả họ không giữ một số kinh sách. Chắc chắn là kinh điển vẫn còn sau biến cố đau thương ấy nhưng không còn người kế thừa lưu giữ, tu tập và giảng dạy nên dần dần chúng bị hủy hoại theo thời gian. Như vậy theo nội dung trên, Phật giáo thịnh khi chúng Tỳ-kheo thịnh, Phật giáo suy giảm và tiêu vong khi chúng Tỳ-kheo suy và biến mất. Một câu hỏi đặt ra là tại sao Phật giáo có hai chúng gồm xuất gia và tại gia nhưng khi chúng xuất gia mất thì Phật pháp không được duy trì? Phật giáo là chỉ dành riêng cho hàng xuất gia chăng? Trước khi trả lời câu hỏi, chúng ta hãy tìm hiểu nguyên nhân Phật giáo suy vong ở Ấn Độ.

Nguyên nhân Phật giáo suy vong ở Ấn Độ

Trong bài “Vì sao Phật giáo suy tàn tại Ấn Độ”(2)do D.C Ahir một học giả người Ấn Độ viết và Trần Đức Phi Bằng dịch, tác giả đã đưa ra một số nguyên nhân sau:

Nguyên nhân bên ngoài gồm: Một là sự xung đột giữa Bà-la-môn giáo và Phật giáo. Hai là sự thù giận và ghét bỏ của các Bà-la-môn hành nghề tế lễ. Ba là Phật giáo không những bị mất sự ủng hộ của nhà cầm quyền mà còn bị đàn áp, phá hủy. Bốn là âm mưu tiêu diệt Phật giáo của người Hồi giáo. Năm là Phật giáo bị đồng hóa.

Nguyên nhân bên trong: Thứ nhất Tăng sĩ xao lãng việc tu tập, thờ ơ với sứ mệnh truyền bá Chánh pháp phụng sự xã hội, đánh mất sự giao hảo gần gũi với quần chúng. Thứ hai, Phật giáo không có tổ chức cư sĩ để giảng dạy, truyền bá và bảo vệ tôn giáo của mình. Do đó, họ chỉ đứng nhìnmà không giúp được gì khi các tu viện bị cướp phá, xúc phạm và các Tăng sĩ bị trục xuất hay giết hại. Thứ ba, thiếu vắng những nghi thức cho các sinh hoạt liên quan đến đời sống văn hóa, tập tục xã hội như hôn nhân, tang tế. Và cuối cùng là tín đồ mê tín dị đoan.

Theo tác giả, những nguyên nhân làm Phật giáo bị suy vong tại Ấn Độ không phải bên trong mà là bên ngoài. Chính sự đàn áp, giết hại, và phá hoại của Ấn Độ giáo và sau đó là Hồi giáo khiến cho Tăng sĩ bị giết, chùa chiền bị san bằng, kinh điển bị tiêu hủy đưa đến Phật giáo bị xóa sổ. Ông cũng bác quan điểm cho rằng Phật giáo suy tàn là do Tăng-già suy đồi vì điều đó chỉ ảnh hưởng đến việc truyền bá và duy trì Phật pháp hơn là suy vong. Người viết cũng đồng ý với quan điểm này. Tổ chức Phật giáo cho dù có suy đồi vẫn có những bậc chân tu, đạo đức cho quần chúng nương tựa. Nếu không có sự phá hoại của bên ngoài thì Phật giáo chỉ có thể thịnh hoặc suy giảm mà không thể suy tàn được.

Cũng theo Từ điển bách khoa toàn thư Phật giáo(Encyclopaedic Dictionary of Buddhism) xuất bản năm 1998, Samir Nath đưa ra 12 nguyên nhân làm cho Phật giáo suy vong. Trong đó, ông cũng chỉ liệt kê 3 nguyên nhân bên trong là sự suy thoái trong Tăng-già, sự chia rẽ trong Phật giáo, và thần tượng thờ phụng Đức Phật. Ba nguyên nhân này cũng chỉ làm cho Phật giáo thịnh hoặc suy giảm chứ không thể suy vong. Như vậy, quan điểm của Ahir được củng cố thêm. Để làm rõ hơn quan điểm này, ta tiếp tục xem trường hợp Phật giáo suy yếu ở Việt Nam.

Nguyên nhân Phật giáo Việt Nam suy yếu sau thời Lý, Trần

Phật giáo Việt Nam cũng trải qua thăng trầm, thịnh suy theo quy luật. Theo sử liệu, Phật giáo dưới hai triều đại Lý và Trần được thừa nhận là cực thịnh và được gọi là thời vàng son của Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên, điều không may mắn là Phật giáo đã không thể duy trì vị thế ấy. Từ cuối đời Trần trở đi, Phật giáo suy đồi và có lúc phục hưng nhưng chưa thể so bằng với Phật giáo dưới hai triều đại ấy. “Sự suy đồi ở đây không phải là Phật giáo đánh mất ảnh hưởng trong quần chúng mà là đánh mất vai trò lãnh đạo trí thức, văn hóa và chính trị”. Nguyên nhân ở đây cũng bao gồm bên ngoài và bên trong nhưng chủ yếu là từ bên trong. Nguyên nhân bên ngoài là vua chúa hết lòng ủng hộ Phật giáo như trước và các nhà Nho trí thức công kích Phật giáo. Tuy nhiên, nguyên nhân chính là do chùa chiền nhiều nên không thể quản lý tốt; Tăng chúng đông nhưng thiếu học; thành phần bất hảo trà trộn vào Tăng đoàn làm mất thanh danh; Tăng sĩ kiêu hãnh khi được cúng dường hậu hĩnh; chùa tượng quá nhiều gây lãng phí và gây ác cảm đối với các Nho gia; và do Phật giáo ỷ lại quá nhiều vào sự ủng hộ của thế quyền(3). Như vậy, tình trạng nội bộ của Phật giáo ở Việt Nam cũng có phần giống như tình trạng ở Ấn Độ nhưng Phật giáo Việt Nam không bị suy vong vì Phật tử Việt Nam đã thành công trong việc bảo vệ và chống lại sự đàn áp và âm mưu tiêu diệt của ngoại đạo cuồng tín và quá khích. Đó là điều may mắn và cũng là bổn phận của Phật tử Việt Nam. Có thể Phật tử Ấn Độ cũng đấu tranh bảo vệ Phật giáo nhưng họ đã không thành công.

Nhận xét và đề xuất

Từ những dẫn chứng trên, ta có thể suy ra rằng Phật giáo thịnh hay suy yếu và cuối cùng suy vong là do những nguyên nhân từ bên ngoài lẫn bên trong. Trong khi nguyên nhân bên trong chỉ có thể làm cho Phật giáo suy yếu thì nguyên nhân bên ngoài có thể làm Phật giáo suy vong. Khi đã xác định được nguyên nhân rõ ràng cụ thể rồi, người Phật tử cần phải tìm kiếm giải pháp thích hợp. Một câu hỏi lớn là tại sao tín đồ Phật giáo không thể bảo vệ tôn giáo cao quý của mình trước kẻ ngoại đạo tấn công và phá hoại?

Phật giáo được hiểu tổng quát bao gồm Phật, Pháp và Tăng, gọi chung là Tam bảo. Tăng-già nếu hiểu rộng ra phải bao gồm cả quần chúng cư sĩ vì ý nghĩa của chữ “Tăng” là hòa hợp chúng. Khi hàng Tăng bảo suy đồi tức đánh mất vai trò của họ về lãnh đạo văn hóa, chính trị xã hội và đánh mất sự ảnh hưởng đối với quần chúng thì ít ra Phật và Pháp bảo vẫn còn nguyên vẹn, nhất là thời kỳ văn bản đã được lưu truyền. Tuy nhiên với Phật giáo, hàng Tăng bảo không còn đồng nghĩa với Pháp bảo không còn và dẫn đến Phật bảo cũng mất. Phật giáo là tài sản chung của mọi người nhưng rõ ràng chính hàng Tăng bảo giữ quyền quyết định sự tồn vong của Phật giáo. Do đó, trước nhất và trên hết để bảo vệ Phật giáo và làm cho nó cường thịnh thì phải xây dựng hàng Tăng bảo cường thịnh theo tinh thần kinh đã nêu ở trên.

Tăng bảo cường thịnh là điều kiện cần, Phật tử cư sĩ phát tâm hộ trì Phật giáo mới là điều kiện đủ. Hàng Tăng bảo có thể làm cho Phật giáo thịnh hay suy nhưng họ không bao giờ làm cho Phật giáo biến mất. Nói cụ thể, họ không bao giờ tự đánh mất quyền lợi của họ. Vậy thì chỉ có kẻ bên ngoài làm Phật giáo suy vong trong đó có chính người Phật giáo. Thói thường, khi Tăng bảo suy đồi thì hàng cư sĩ quay lưng với Phật giáo và có thể theo đạo khác. Quần chúng Phật tử cư sĩ là lực lượng hộ trì quan trọng mà quay lưng thì Phật giáo suy yếu. Lúc ấy, ngoại đạo tấn công phá hoại, nhất là bằng vũ trang, thì Phật giáo không đủ nội lực chống trả để bảo vệ tôn giáo của mình. Ngày nay, các tôn giáo cạnh tranh khốc liệt để thu nhận tín đồ. Họ không từ thủ đoạn, thậm chí sát hại tín đồ đạo khác. Do vậy, hướng dẫn hàng cư sĩ tu học và có trách nhiệm với tôn giáo của mình là nhiệm vụ cần phải thực hiện ngay.

Như học giả Ahir đã nêu, “Phật giáo không có tổ chức cư sĩ để giảng dạy, truyền bá và bảo vệ tôn giáo của mình. Phật giáo cũng thiếu vắng những nghi thức cho các sinh hoạt liên quan đến đời sống văn hóa, tập tục xã hội như hôn nhân, tang tế…”. Do không có kế hoạch bài bản, cụ thể để đào tạo hàng cư sĩ cũng như không thiết lập nghi thức mang đậm nét Phật giáo để giáo hóa quần chúng, Phật giáo tự đánh mất vai trò của mình trong xã hội. Vì vậy, tạo dựng nét văn hóa Phật giáo trong tất cả các tập tục, lễ hội… cũng là điều cấp bách.

Kỷ niệm ngày đản sinh của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni không gì hơn là duy trì và truyền bá lời dạy của Ngài đến với mọi người. Bên cạnh tổ chức các hình thức kỷ niệm mang nét văn hóa Phật giáo, Phật tử cũng cần có chiến lược lâu dài. Xây dựng hàng Tăng bảo vững mạnh, đào tạo hàng cư sĩ có thể hoằng pháp và có trách nhiệm bảo vệ Phật giáo, và thiết lập nền văn hóa Phật giáo trong tất cả các tập tục sinh hoạt cộng đồng là những hành động thiết thực cúng dường Đức Phật. Chiến lược này thành công, chắc chắn ngày Phật đản nơi nơi rợp cờ Phật giáo.

Chú thích

(1)Richard, F. Gombrich, Theravada Buddhism: a Social History from Ancient Benares to Modern Colombo, (New York: Routledge, 2006), p.72.

(2)http://quangduc.com/lichsu/90visaopgsuytan.html.

(3)Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử Lược, (Hà Nội: NXB. Văn Học, 2000), tr.479 - 482.

Thích Hạnh Chơn (Nguyệt San Giác Ngộ)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/10/2024(Xem: 815)
Thân-Khẩu-Ý (身-口-意; P: Kāya-Vacī-Mano; S: Kāya-Vak-Mana; E: Body-Speech-Thought) là 3 thứ tách biệt nơi con người, nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, Ý là yếu tố có sự tác động đến cả Thân và Khẩu. Nếu một hành động của Thân hay lời nói của Khẩu mà không có Ý tác động vào thì khó mà có kết quả.
19/10/2024(Xem: 670)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
14/10/2024(Xem: 1512)
Bầu không khí chính trị trên thế giới hiện nay đang nóng bỏng vì khuynh hướng độc tài, cực đoan, chia rẽ, hận thù và cuồng vọng không thua kém gì bầu khí quyển của địa cầu đang nóng dần lên do khí thải nhà kính gây ra. Cả hai đều do con người tạo ra và đều là thảm họa cho nhân loại! Nhưng thảm họa này không phải là điều không thể giải quyết được, bởi lẽ những gì do con người gây ra cũng đều có thể do con người ngăn chận và hóa giải được. Cụ thể là hàng chục năm qua, Liên Hiệp Quốc đã nỗ lực kêu gọi, bằng các nghị quyết, các quốc gia cố gắng thực hiện các biện pháp giảm khí thải nhà kính, với các chính sách cắt giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, gia tăng sản lượng xe chạy bằng điện năng, v.v… Dù kết quả chưa đạt được mức yêu cầu, nhưng cũng đã gây được ý thức và thể hiện quyết tâm của cộng đồng thế giới trong việc giải quyết thảm họa của khí thải nhà kính.
04/06/2024(Xem: 4021)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
27/05/2024(Xem: 994)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế. Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.” Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.] Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ. Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
30/04/2024(Xem: 2982)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 3541)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3703)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 7425)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]