Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lòng bi mẫn căn cứ trên sinh học và lý luận

03/10/201208:09(Xem: 5137)
Lòng bi mẫn căn cứ trên sinh học và lý luận


LÒNG BI MẪN CĂN CỨ TRÊN SINH HỌC VÀ LÝ LUẬN
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Prague, Cộng hòa Séc, 11 tháng Mười 2006
Alexander Berzin sao chép và hiệu đính sơ

Kết quả của bất cứ hành động nào đều tùy thuộc vào động cơ của đương sự. Cùng một hành động có thể đưa đến kết quả khác nhau, tùy theo đương sự có phiền não hay cảm xúc tích cực trong tâm. Thậm chí khi có cùng một cảm xúc chung chung, thí dụ như lòng bi mẫn thúc đẩy một hành động, các yếu tố tình cảm và tinh thần hỗ trợ cảm xúc ấy cũng tác động lên kết quả.

Thí dụ, ta hãy xem xét lòng bi mẫn. Nó có ba loại:

  • Loại thứ nhất trực tiếp hướng về thân quyến và người thương. Nhưng dựa vào tâm chấp thủ, phạm vi của nó có giới hạn. Ở trường hợp không đáng kể nhất, nó có thể nhanh chóng biến thành lòng sân hận và thậm chí thù oán.
  • Loại thứ hai là bi tâm trực tiếp hướng về những chúng sinh đang đau khổ, dựa vào lòng thương hại đối với họ. Với loại bi tâm này, ta xem họ ở vị trí thấp hơn mình và hoàn cảnh của mình tốt đẹp hơn. Hai loại bi tâm này sinh khởi từ những phiền não và vì vậy, chúng mang lại vấn đề.
  • Loại thứ ba là tâm bi không thiên vị. Nó căn cứ trên sự thấu hiểu và tôn trọng. Với tâm bi này, ta nhận ra rằng người khác cũng giống như ta: họ đều có quyền được hưởng hạnh phúc và không muốn đau khổ như ta. Nhờ sự thấu hiểu này, ta mới phát tâm từ bi và cảm tình đối với họ. Loại thứ ba này là loại bi tâm vững bền. Nó được phát triển nhờ sự rèn luyện, giáo dục và lý luận. Loại bi tâm này càng vững vàng bao nhiêu thì nó càng tạo ra lợi lạc bấy nhiêu.

Ba loại bi tâm này thuộc vào hai thể loại nói chung. Hai loại đầu là những cảm xúc sinh khởi một cách tự phát, dựa vào sự rối loạn tinh thần nào đó. Loại thứ ba là cảm xúc sinh khởi dựa trên lý luận.

Lòng bi mẫn căn cứ trên lý luận và không có bất cứ thành kiến nào sẽ được tăng trưởng do bản tính tự nhiên. Vào lúc sinh ra, dù là con người, động vật có vú hay chim chóc - tôi không biết rùa biển và bươm bướm thì sao - nhưng tất cả chúng ta tự động có một tình yêu không thiên vị đối với mẹ của mình, mặc dù ta không biết bà. Chúng ta đều cảm thấy một hấp lực, sự gần gũi và trìu mến tự nhiên đối với mẹ của mình. Bà mẹ cũng thế, tự động cảm thấy một sự gần gũi và trìu mến tự nhiên đối với đứa con mà bà mới sinh ra. Vì vậy mà bà chăm sóc và nuôi dưỡng đứa bé. Sự chăm sóc tràn đầy tình thương này là nền tảng cho sự phát triển lành mạnh của đứa bé.

Từ điều này, ta có thể thấy rằng sự gần gũi và thương yêu dựa trên nền tảng sinh học là những hạt giống của tâm bi. Chúng là những tặng phẩm lớn nhất mà chúng ta có thể tiếp nhận, và chúng bắt nguồn từ các bà mẹ của chúng ta. Khi chúng ta nuôi dưỡng những hạt giống này bằng sự lý luận và giáo dục, chúng sẽ nảy nở thành lòng bi mẫn thật sự, không thiên vị và hướng về mọi người một cách đồng đều, dựa trên sự thấu hiểu về tính chất bình đẳng của chúng ta.

Đối với đứa bé, tình thương không căn cứ trên tôn giáo, luật lệ, hay sự bắt buộc của cảnh sát. Nó chỉ đến một cách tự nhiên. Vì vậy, mặc dù tâm bi mà tôn giáo giảng dạy là điều tốt đẹp, nhưng hạt giống thật sự, căn bản thật sự của tâm bi là yếu tố sinh học. Đó là cơ sở của những gì tôi gọi là "đạo đức thế tục." Tôn giáo chỉ cần củng cố hạt giống này.

Một số người nghĩ rằng luân lý đạo đức phải đặt nền tảng riêng biệt vào đức tin tôn giáo. Những người khác nghĩ rằng ý thức về đạo đức có thể được phát triển bằng sự rèn luyện. Một số nghĩ rằng "thế tục" nghĩa là một sự phủ nhận về tôn giáo. Những người khác nghĩ rằng "thế tục" ngụ ý việc tôn trọng tất cả tôn giáo một cách không thiên vị, kể cả sự tôn trọng đối với những người không có đức tin, theo như hiến pháp của Ấn Độ. Loại đạo đức sau cùng này bắt nguồn từ bản năng, đặc biệt là khi nó căn cứ trên tâm bi. Còn trong trường hợp của bà mẹ và đứa bé mới sinh ra, tất cả phát sinh một cách tự động vì nhu cầu của sự sống còn. Nhờ vào căn bản sinh học ấy, chúng tồn tại một cách vững vàng hơn.

Khi trẻ con nô đùa, chúng không nghĩ đến tôn giáo, chủng tộc, chính trị, hay bối cảnh gia đình. Chúng cảm kích nụ cười của bạn bè, bất kể những đứa trẻ kia là ai, và đáp lại bằng sự tử tế. Tâm thức và trái tim của chúng mở rộng. Trái lại, người lớn thường xem trọng những yếu tố khác, như sự khác biệt chủng tộc và chính trị, v.v... Vì vậy mà tâm thức và trái tim của họ hẹp hòi hơn.

Hãy xem xét sự khác biệt giữa hai điều này. Khi giàu lòng bi mẫn hơn, tâm thức và trái tim ta cởi mở hơn, và ta giao tiếp với người khác một cách dễ dàng hơn nhiều. Khi ta chỉ nghĩ đến bản thân, tâm thức và trái tim của ta khép kín và ta sẽ khó mà giao tiếp với người xung quanh. Sự sân hận làm hệ thống miễn nhiễm yếu đi, trong khi tâm bi và lòng tốt cải thiện hệ thống miễn nhiễm của ta. Với tâm sân hận và sợ hãi, ta không thể ngủ và thậm chí khi đi vào giấc ngủ, ta sẽ có những cơn ác mộng. Nếu tâm ta bình an thì ta sẽ ngủ ngon. Ta không cần một thứ thuốc an thần nào cả, vì năng lượng của ta đã được quân bình. Khi gặp áp lực, năng lượng của ta phân tán khắp nơi và ta cảm thấy bồn chồn lo lắng.

Ta cần có một tâm trí tĩnh lặng để nhìn và thấu hiểu sự việc một cách rõ ràng. Nếu như bị khích động, ta không thể thấy được thực tại. Vì vậy, hầu hết những rắc rối, ngay cả trên mức độ toàn cầu, là những vấn nạn do con người gây ra. Chúng phát sinh bởi vì chúng ta đã xử sự một cách tồi tệ, vì ta không thấy được thực tại. Hành vi của ta căn cứ trên sự sợ hãi, sân hận và áp lực. Có quá nhiều sự căng thẳng. Ta không có sự khách quan vì tâm ta bị mê muội. Những cảm xúc tiêu cực này đưa đến tâm thức hẹp hòi, điều này dẫn đến việc tạo ra những rắc rối, và nó không bao giờ đem lại những kết quả như ý.

Trái lại, lòng bi mẫn đem lại một tâm tư cởi mở và an tĩnh. Với tâm thức này, ta sẽ thấy được thực tại và những phương pháp nào hữu hiệu để chấm dứt những gì mà không ai muốn và mang lại những gì mọi người mong muốn. Đây là một điểm quan trọng và lợi ích lớn lao của tâm bi dựa trên lý luận. Vì vậy, để thúc đẩy những giá trị nhân bản căn cứ trên sinh học và được lý luận hỗ trợ, những bà mẹ, cùng với bản năng thương yêu và tình cảm giữa mẹ và con, đóng một vai trò quan trọng.

(Viện Lưu Trữ Phật Pháp Berzin)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/03/2023(Xem: 3604)
Năm 2011, chuyên mục này đã đưa ra một số chủ đề lớn, từ những phương pháp hay nhất, dành cho tăng đoàn Phật giáo với khoa học công nghệ best practices with technology for sanghas, đến việc khám phá các mối quan hệ giữa sự thật khoa học thần kinh và Phật pháp relationship between truth, neuroscience, and the Dharma. Sau đó, chúng tôi đề cập đến tính hai mặt dưới góc nhìn khoa học thần kinh duality in light of neuroscience, và bắt đầu chỉ ra những lợi ích của việc xây dựng một lý thuyết khoa học về sự văn minh a scientific theory of enlightenment. Bởi thắc mắc này đang đưa ra những chủ đề mới dịp đầu xuân này, có lẽ tôi nên nhấn mạnh điều gì đó.
18/03/2023(Xem: 6599)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
18/03/2023(Xem: 3833)
Công nghệ phát triển thay đổi cuộc sống con người, tuy nhiên sẽ thật ngây thơ khi tin rằng công nghệ chỉ mang lại lợi ích mà không phải trả giá. Một chủ đề lặp đi lặp lại trong lịch sử là sự ra đời của các công cụ và cơ bản công nghệ đổi mới, sẽ thay đổi cách chúng ta nhìn nhận bản thân và thế giới, cũng như trong đó có vai trò của chúng ta. Từ sự phát triển động cơ hơi nước, hàng không, xử lý máy tính và gần đây hơn là trí tuệ nhân tạo (AI), các công cụ và công nghệ đã cải thiện phúc lợi đáng kể và năng suất của con người nhưng không nhất thiết là phúc lợi của con người và các hệ sinh thái của thế giới.
03/02/2023(Xem: 5818)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 6528)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 5515)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 14241)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
14/12/2022(Xem: 2154)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18622)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14213)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567