Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thi Kệ và Đại Nguyện Tịnh Độ (sách pdf)

08/12/201908:58(Xem: 27725)
Thi Kệ và Đại Nguyện Tịnh Độ (sách pdf)
Thi Ke va dai nguyen tinh do_Thich Thai Hoa-2019

 

MỤC LỤC

 

Ngỏ. 7

Thi kệ và đại nguyện tịnh độ. 9

Đại nguyện thứ nhất: Cõi nước không có các đường xấu ác  13

Đại nguyện thứ hai: Không bị rơi lại trong các đường xấu ác  17

Đại nguyện thứ ba: Được thân sắc màu vàng như màu vàng kim loại 20

Đại nguyện thứ tư: Hình và sắc tương đồng. 22

Đại nguyện thứ năm: Biết rõ sinh mệnh đời trước. 24

Đại nguyện thứ sáu: Có được thiên nhãn. 28

Đại nguyện thứ bảy: Có được thiên nhĩ 30

Đại nguyện thứ tám: Thấy được tâm người 32

Đại nguyện thứ chín: Có được thần túc. 36

Đại nguyện thứ mười: Không chấp thân thể. 39

Đại nguyện mười một: An trú thiền định đến chứng Niết bàn  41

Đại nguyện mười hai: Có được ánh sáng vô lượng. 44

Đại nguyện mười ba: Sống lâu vô lượng. 47

Đại nguyện mười bốn: Chúng Thanh văn vô số. 49

Đại nguyện mười lăm: Chư thiên-nhân loại thọ mạng lâu dài 51

Đại nguyện mười sáu: Không nghe tên xấu. 53

Đại nguyện mười bảy: Chư Phật khen ngợi 55

Đại nguyện mười tám: Mười niệm vãng sanh. 57

Đại nguyện mười chín: Thánh chúng tiếp dẫn. 59

Đại nguyện hai mươi: Muốn sanh toại ý. 62

Đại nguyện hai mươi mốt: Đủ ba mươi hai tướng tốt 65

Đại nguyện hai mươi hai: Một đời làm Phật 69

Đại nguyện hai mươi ba: Cúng dường chư Phật 70

Đại nguyện hai mươi bốn: Vật cúng tùy ý. 73

Đại nguyện hai mươi lăm: Thuyết bằng tuệ giác. 75

Đại nguyện hai mươi sáu: Được thân kim cang. 76

Đại nguyện hai mươi bảy: Muôn vật nghiêm tịnh. 79

Đại nguyện hai mươi tám: Thấy đạo thọ cao sáng. 82

Đại nguyện hai mươi chín: Được trí tuệ biện tài 84

Đại nguyện ba mươi: Biện tài vô hạn. 87

Đại nguyện ba mươi mốt: Cõi nước thanh tịnh. 90

Đại nguyện ba mươi hai: Trang nghiêm cõi nước. 93

Đại nguyện ba mươi ba: Xúc chạm ánh sáng. 95

Đại nguyện ba mươi bốn: Chứng vô sanh nhẫn. 98

Đại nguyện ba mươi lăm: Thoát ly nữ thân. 101

Đại nguyện ba mươi sáu: Tu hạnh thanh tịnh. 104

Đại nguyện ba mươi bảy: Trời người cung kính. 106

Đại nguyện ba mươi tám:  Y phục tùy niệm.. 108

Đại nguyện ba mươi chín: Niềm vui vô tận. 111

Đại nguyện bốn mươi: Ngay trong cây báu thấy rõ
cùng khắp. 113

Đại nguyện bốn mươi mốt: Các căn vẹn toàn. 115

Đại nguyện bốn mươi hai: Trong định cúng dường. 118

Đại nguyện bốn mươi ba: Sanh nhà tôn quý. 121

Đại nguyện bốn mươi bốn: Đủ cội công đức. 125

Đại nguyện bốn mươi lăm: Trong định thấy Phật 128

Đại nguyện bốn mươi sáu: Nghe pháp tùy nguyện. 130

Đại nguyện bốn mươi bảy: Không còn thoái chuyển. 135

Đại nguyện bốn mươi tám: Chứng ba pháp nhẫn. 140

Bốn mươi tám đại nguyện Âm và Việt.............. 147 

 

- Sám khể thủ - Việt âm....................................... 175

- Sám văn khể thủ - Việt nghĩa........................... 182

- Sám nhất tâm - Việt âm..................................... 190

- Sám văn nhất tâm - Việt nghĩa......................... 193

- Sám phổ hiền - Việt âm..................................... 196

- Sám văn Phổ hiền - Việt nghĩa......................... 197

- Sám thập phương - Việt âm.............................. 298

- Sám văn thập phương - Việt nghĩa.................. 200

- Nguyện kệ sinh - Việt âm................................. 202

- Nguyện kệ sinh - Việt nghĩa............................. 208

- Thư Mục Tham Khảo. 214

 

 
 hoasen1 


 

Ngỏ

Kính lễ Phật Pháp Tăng là thể hiện niềm tin sâu xa của Tứ chúng đệ tử đức Phật mỗi ngày đối với Tam bảo.

 

Đệ tử Phật dù tu tập chứng A-la-hán vẫn suốt đời nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng không hề xao lãng.

 

Các vị Bồ tát từ khi phát Bồ đề tâm, tu tập trải qua các địa vị từ Tín, Trú, Hạnh, Hướng, Địa cho đến Đẳng giác không phải chỉ nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng một đời mà đời đời, kiếp kiếp đều nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng.

 

Nhờ sự nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng như vậy, mà Bồ tát không rơi mất hay quên lãng tâm bồ đề, khiến nhập được vào cảnh giới Tịnh độ không thể nghĩ bàn của chư Phật, nhập vào thể tính bất sinh diệt cùng khắp của Pháp và nhập vào bản thể hòa hợp-thanh tịnh, sự lý dung thông vô ngại của Tăng.

 

Kính lễ Tam bảo mỗi ngày bằng tín tâm thanh tịnh, ngã tính tự rỗng lặng, năng sở tiêu dung, cõi tâm rực sáng, như không gian không còn có gợn mây mù, mặt trời, mặt trăng, sao hôm, sao mai tha hồ soi chiếu, muôn vật tùy cơ mà ứng, tùy thời mà hiện.

 

Nên, ai kính tín Tam bảo thì tự biết lấy, ai không có niềm tin Tam bảo xin miễn luận bàn; Ai chí thành thanh tịnh lễ Phật, thì cõi Phật thanh tịnh hiện ra; Ai biết duyên vào tâm thanh tịnh mà cầu sinh Tịnh độ, thì Tịnh độ chư Phật hiện tiền, khiến sinh mà bất sinh và bất sinh mà thường sinh ở trong cõi Tịnh độ của chư Phật vậy.

Thích Thái Hòa


pdf-iconThi Kệ và Đại Nguyện Tịnh Độ_Thích Thái Hòa







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 87128)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 137064)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 18657)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
30/11/2017(Xem: 7311)
Định nghĩa. Vô Trước. Vô, nghĩa là không. Trước, nghĩa là dính mắc, bị dính vào, mắc vào, kẹt vào. Cụm từ Vô Trước, nói cho đủ: Không bị dính mắc, kẹt vào. Danh từ kép này, được chỉ cho những hành giả trong đạo phật trên đường tu tập, để tìm cầu cho mình cơn đường giải thoát là không để cái Tâm bị dính vào, mắc vào, kẹt vào sắc trần, nói như pháp môn thiền định “đối cảnh vô tâm. Như vậy, tâm con người thường bị dính trần hay sao, mà pháp thiền phải cảnh giác ? Đúng như vậy, tâm của kẻ phàm phu ưa dính, mắc vào, kẹt vào sắc trần vật chất, ưa trách móc, ưa chấp nê, ưa nghe lời khen ngợi
21/11/2017(Xem: 11294)
Từ Kinh Phật Sơ Thời Đến Thiền Đốn Ngộ Giới Thiệu Tác Phẩm “Thiền Tông Qua Bờ Kia” Của Cư Sĩ Nguyên Giác--Trong tác phẩm mới xuất bản “Thiền Tông Qua Bờ Kia” tác giả Cư Sĩ Nguyên Giác kể chuyện buổi đầu ông học Thiền với Hòa Thượng Bổn Sư Thích Tịch Chiếu ở Chùa Tây Tạng tại Tỉnh Bình Dương, Việt Nam như sau: “Tôi nhớ lại buổi đầu gặp Hòa Thượng Tịch Chiếu, hỏi Thầy rằng con nên tập Thiền thế nào, Thầy nói rằng, “Phải Thấy Tánh đã.” Lúc đó, Thầy bảo đứa em kế tôi phải niệm Phật sáng trưa chiều tối, và quay sang đứa em gái kế sau nữa của tôi, bảo nhỏ này là con hãy về đọc bài Bát Nhã Tâm Kinh tối ngày sáng đêm. Tôi hỏi, rồi con cần niệm hay đọc gì hay không, Thầy đáp, con không có một pháp nào hết.”[1]
01/11/2017(Xem: 10468)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
25/08/2017(Xem: 23185)
Bản Giác (sách pdf) tác giả: Tiến sĩ Lâm Như Tạng
13/03/2017(Xem: 6366)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực.
01/02/2017(Xem: 5310)
Một số tư tưởng Phật học sau đây cùng nói lên nghĩa của Ý Giáo : Ý tưởng mong muốn đem giáo Pháp giải thoát của Phật ra, giảng dạy cho mọi người được biết mà tu tập. Tâm thông đạt mọi khế lý, giáo nghĩa Phật pháp. Tự mình làm thầy lấy mình để sửa tâm. Tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hành giả vào đạo Phật để tìm con đường giải thoát
27/12/2016(Xem: 14363)
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]