Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tư tưởng Duy-ma-cật từ một góc nhìn

08/01/201918:12(Xem: 5519)
Tư tưởng Duy-ma-cật từ một góc nhìn
Tư tưởng Duy-ma-cật từ một góc nhìn

Tu Tuong Duy Ma Cat_HT Thich Thai Hoa
bia-tutuongduymacat
Ngỏ

 Tư tưởng Duy-ma-cật từ một góc nhìn_HT_Thích Thái Hòa

      Bố thí là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào có khả năng thí xả, có thể sinh vào cõi ấy. Trì giới là Tịnh độ của Bồ tát.  Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh tu hành mãn nguyện mười thiện nghiệp sẽ sinh về cõi ấy. Nhẫn nhục là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật chúng sinh nào trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng tốt sẽ sinh về cõi ấy. Tinh tấn là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào cần mẫn, thực hành mọi công đức sẽ sinh về cõi ấy. Thiền định là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, những chúng sinh nào nhiếp tâm không tán loạn sẽ sinh về cõi ấy. Trí tuệ là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh có chánh định sẽ sinh về cõi ấy.

     Bốn vô lượng tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào thành tựu từ, bi, hỷ, xả, sẽ sinh về cõi ấy...”.

     Bấy giờ Hòa thượng dạy: “Đại thừa hay Tiểu thừa, Thiền tông hay Tịnh độ không nằm ở nơi chiếc áo, trú xứ chùa tháp, Tông phái, hệ phái hay chữ nghĩa, mà nằm ngay ở nơi tâm của chúng ta. Nếu chúng ta có trực tâm, có thâm tâm, có Bồ đề tâm, nguyện sống và hành hoạt theo tâm ấy là chúng ta có ngay Tịnh độ của chư Phật. Nếu chúng ta không có tâm ấy, thì ngay ở nơi cõi người, chúng ta đã đi bị hỏng đất, nói gì đến Đại thừa, Tiểu thừa, Nguyên thủy, Hệ phái, Tông phái, Tịnh độ hay Thiền tông!”.

       “Muốn xây dựng tịnh độ thì phải có tâm tịnh, không có tâm tịnh thì nỗ lực xây dựng tịnh độ đến mấy cũng không thành. Muốn xây dựng tịnh độ thì phải tịnh hóa tự tâm bằng trực tâm, thâm tâm, bồ đề tâm qua hạnh và nguyện. Không phát nguyện, không lập hạnh, thì tịnh độ chỉ là tịnh độ tự tâm mà tịnh độ không bao giờ trở thành hiện thực”.

        Hơn bốn mươi năm qua, lời dạy của Người mãi còn vang vọng trong tâm tôi, chỉ đường cho tôi đi, mở mắt cho tôi thấy, trao cho tôi phương pháp hành đạo, đưa tôi vượt qua bao thác ghềnh, giông bão.

        Nay, hội đủ duyên lành, tôi viết cuốn Tư tưởng Duy Ma Cật Từ một góc nhìn, để kính tạ ơn thâm của Người và của những bậc cao đức, những bậc Giáo thọ ân sư, và hồi hướng công đức cho cha mẹ, thiện hữu tri thức, ác hữu tri thức, cùng hết thảy muôn loài. Nguyện xin tất cả đều hội nhập pháp tính chân thật và đồng vào biển cả trí tuệ của Phật.

        Với tác phẩm này, ai có duyên thì đọc, không có duyên thì thôi, chẳng có chi nhọc lòng!

Tàng Kinh Các-Huế, mùa nhập thất 2018
Thích Thái Hòa
  pdf-icon
Ý kiến bạn đọc
15/01/201903:19
Khách
Nam mô a di đà phật . quan niệm của con về từ , bi , hỹ ,xã trong việc hành và hạnh ở cuộc sống như phần xẽ nêu dưới đây như sau mong chư thầy xem xét và đánh giá giúp con
Về Hành ( thực hành ) hỹ và xã trong cuộc sống bình thường , ai cũng vậy khi thực tâm XÃ( cho mà không nghĩ về việc mình xẽ nhận lại bất cứ điều gì ) giúp đỡ được một người vượt qua khó khăn mình xẽ cảm thấy hạnh phúc đó là HỸ
Nhưng vì sao phải hành cái hạnh hỹ xã ấy
Vd1: một người có thể HỸ XÃ giúp 10% tài sản mình có cho người khác nhưng khi gặp một trường hợp người cần giúp đỡ 20% 50% tài sản mình có thì họ lại cảm thấy phân vân khó khăn trong quyết định có XÃ hay không
Bất cứ một việc gì trong cuộc sống cũng vậy khi ta chưa từng làm điều ấy thì mình xẽ không biết , có thể thấy khó , hoặc không thể nhưng khi làm quen rồi thì ai cũng cảm thấy bình thường. Một đứa bé không biết dùng đũa để ăn thì đối với nó xẽ khó nhưng người sử dụng nhiều xẽ cảm thấy quen và bình thường
Quay lại từ đầu vd1 khi 1 người hành HỸ XÃ 10% tất cả những gì mình có thì khi duyên đến 1 trường hợp 11% 12% họ xẽ dễ dàng xã hơn 1 người chưa từng xã vì khoản cách bình thường của họ là từ 10%( bình thường ) đến 11% là ít hành càng nhiều thì họ xẽ xã được càng nhiều đến khi tu sĩ ấy hành đến 100% ( có thể xã tất cả những gì mình có thì tu sĩ ấy đã đạt được Hạnh HỸ Xã của bồ tát rồi đúng không ạ.
Con mong hồi âm của chư thầy ạ
Mail : dangnguyen18121990@gmail.com
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2022(Xem: 17759)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 13314)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 11904)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 5956)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8316)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7441)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 30685)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 19410)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 15737)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 3443)
Vô Tầm Vô Tứ Định là tầng Định thứ hai trong bốn chi Thiền do đức Phật thiết lập. Bốn chi Thiền đó gồm Sơ Thiền tương xứng với Sơ Định hay Định Hữu Tầm Hữu Tứ, Nhị Thiền tương xứng với Vô Tầm Vô Tứ Định, Tam Thiền tương xứng với Xả hay An Chỉ Định, Tứ Thiền tương xứng với Chánh Định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567