Muôn Dậm Tìm Cha
Một người con khi xa gia đình, xa quê hương, đã thổn thức mong chờ một chuyến về thăm nhà như thế nào thì người con phật cũng khát khao được về thăm xứ Phật một cách thiết tha như thế ấy!
Duyên lành đã đến với chúng tôi, khi Thượng Toạ Thích Quảng Ba, viện trưởng Tu Viện Vạn Hạnh tại Canberra, Úc đại Lợi hướng dẫn một đoàn hành hương tham dự Lễ Lạc Thành Trung Tâm VIÊN GIÁC của Thượng Toạ Thích Như Điển tại Bồ Đề Đạo Tràng, (BODH GAYA-BIHAR) Ấn Độ.
Sau khi dứt khoát từ chối một chuyến du ngoạn khác rất hấp dẫn, tôi ghi tên ngay, để rồi háo hức đợi chờ ngày được thỏa lòng nguyện ước.
Ngày ấy đã đến! Trải qua một cuộc hành trình dài thăm thẳm qua hàng ngàn cây số đường hẹp, đầy ồ “ khủng long” với biết bao nhiêu rác rến, bò, heo lổm ngổm ngoài đường, chúng tôi đã vượt hàng trăm thị trấn, thôn làng … và hạnh phúc thay, cũng đã chiêm bái được bao nhiêu là Phật Tích!
Có những buổi sáng sớm, xe bus lên đường trong sương lạnh, chúng tôi se lòng thương xót khi thấy những người Ấn nghèo khổ đang ngồi quanh ngọn lửa đốt bằng rác và phân bò để sưởi ấm. Những túp lều lụp xụp đơn sơ làm chúng tôi quặn thắt trái tim. Trẻ ăn xin tật nguyền lê lết dưới cát nóng và những người ăn mày còm cõi bám theo van xin làm chúng tôi vừa nghẹn ngào, vừa sợ hãi và không còn hứng thú đi mua sắm.
Đi ngang vài trường học hiếm hoi mà đàn trẻ con rách rưới phải ngồi xuống đất để học, chúng tôi ngậm ngùi thương cảm cho những người con của đất Phật!
Trên cánh đồng lúa và củ cải với hoa vàng tươi, đâu đâu cũng có các bánh phân bò xếp ngay hàng thẳng lối. Nhìn các phụ nữ, các em gái nhỏ dùng tay nhồi và vo thành bánh các đống phân bò mà đứt ruột! Nhìn các đường mương bùn lầy nước đọng bốc mùi hôi hám bên khu chợ, bên xóm dân cư và các đống rác hiện diện một cách tự nhiên ở khắp nơi mà lòng bồi hồi thương xót!
Dân cư đông đúc, cuộc sống lầm than, … chắc phải là nỗi đau của người hữu trách, nhưng họ đã bất lực không cứu giúp được để cải tiến cuộc sống cho đám dân đen! Như chuyện một vị Hoàng tộc đã đến vùng bùn lầy nước đọng, hàng ngày đi từ con đường này sang đường khác dùng cây gấp rác bỏ vào bao làm gương, để dạy cho dân chúng biết giữ gìn vệ sinh chung. Cứ chiều tối đến, bà trở về khách sạn sang trọng để rồi sáng hôm sau lại đi lang thang khắp nơi, khắp các nẻo đường làm gương cho mọi người. Nhưng đã có mấy ai thức tỉnh làm theo bà? Rồi sau sáu tháng bà trở về cung điện, mọi việc lại như cũ, như bây giờ và vẫn như thế cho đến bao giờ?
Cảnh vật miền Trung Bắc Ấn là như thế đó. Dân tình rất bình dị, nhân hậu, giúp đỡ du khách hết mình. Nhưng lối hành xử lại rất tùy hứng. Còn thức ăn thì đặc biệt, ngon có, lại có. Đặc biệt hơn, khó tìm thấy bóng dáng người phụ nữ trên đường phố mà ta chỉ có thể thấy họ thấp thoáng trong nhà cạnh vườn…
Đã quá xa rồi một thời vàng son của hơn 2500 năm về trước, nhưng dư hương đức Phật vẫn còn đây! Quỳ bên kim thân Đức Phật Như Lai tại tháp Niết bàn (NIRVANA) chị em chúng tôi rưng rức khóc vì thương cảm, tưởng chừng như trong mơ, trông thấy hoa Sa La, hoa trời Mạn Đà La, Hoa Chiên Đàn, các hương trầm đang rải rắc trên kim thân Người để cúng dường.
Tìm đến Lâm Tỳ Ni (LUMBINI) với cung điện cũ, chúng tôi đi qua khu vườn Ni Câu Đà um tùm, cảm động hồi tưởng đến cảnh Tịnh Phạn Vương(SUDDHODANA) ra ngoài thành đón người con vĩ nhân của dòng họ Thích ca (SAKYA) và xúc động bước vào cung điện thành Ca Tỳ Là Vệ (KAPILAVATTHU) với các cây xoài cổ thụ đầy bóng mát, với bốn cửa thành lịch sử và “Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”!
Phái đoàn chúng tôi đến công viên Lâm Tỳ Ni đảnh lễ, kinh hành và đọc tụng những câu kinh cảm niệm công đức sâu dầy của Đức Phật, ngậm ngùi tưởng nhớ đến hình ảnh Hoàng Hậu Maya ( MAHA MAYA) Vin nhánh cây Vô Ưu và hạ sanh Thái Tử.
Bên trụ đá vua A Dục (ASOKA) niềm xúc động trào dâng thành giọt nước mắt cảm hoài, chúng tôi còn chiêm bái những bức phù điêu chạm hình Đức Phật được hạ sanh trong đền thờ Hoàng Hậu Maya và hồ nước nên thơ màu xanh rêu dưới tàng cây Bồ đề tỏa rộng.
Phái đoàn chúng tôi đã đến Đại Tháp Bồ Đề, một nơi linh thiêng mà tất cả các Phật tử đều phải đến (BODHGAYA). Mỗi sáng sớm, chúng tôi và các Phật tử bốn phương nối gót theo Thầy đi những bước kinh hành, niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật, ngồi kiết già, lễ hồng danh Phật, tụng niệm vòng quanh tháp, nơi có những hoa sen nâng bước người con Phật tín thành.
Tiếng tụng kinh, niệm Phật vang lên trầm hùng làm ấm một cõi quốc độ còn mơ màng trong sương sớm, chúng tôi vui mừng khi được chiếc lá từ gốc Bồ Đề lịch sử , nơi thấp thoáng theo cơn gió nhẹ trên những mái đầu đang thành tâm cầu nguyện cho hòa bình thế giới, cho sự hưng thịnh của Phật giáo Việt Nam, cho tất cả chúng sanh trong ba cõi sáu đường - trong đó có gia đình và có cá nhân chúng tôi được an lành và biết giác ngộ biết tu, theo Phật pháp.
Sau buổi hành lễ sáng sớm tại Bồ Đề Đạo Tràng, hai cô cháu chúng tôi Tâm Huệ và Thiện Lạc đi lần vào thôn xóm và được một người Ấn dẫn đến bờ sông Ni Liên Thiền (Neran Jara)- nước cạn khô và mênh mông biển cát- giảng giải và nhắc lại giây phút cô bé chăn dê Su Ja Ta dâng bát cháo sữa lên Đức Bồ Tát, rồi dẫn chúng tôi vào ngôi đền Hồi giáo to rộng với nhiều tượng thần cổ xưa.
Có một hôm phái đoàn chúng tôi cuốc bộ 4km đến Khổ Hạnh Lâm (URUVELA) trèo núi lên ngôi chùa Tây Tạng vào một cái hang hẹp, nơi trước kia Thái tử Tất Đạt Đa đã tu khổ hạnh suốt sáu năm trường, tới đành lễ tượng Phật gầy ốm vì tu ép xác quá lâu. Khi trở về thì bóng tối đã phủ đầy. Người dân Ấn vẫn làm việc, đập đá, chở đá dùng cơm chiều trong bóng tối và chúng tôi lần bước bốn cây số nữa trong bóng mờ gợi nhớ làng quê Việt Nam lúc hoàng hôn...
Chúng tôi tìm lại hình bóng Đức Phật nơi tháp Chuyển Pháp Luân, vườn Lộc Uyển (ISIPATANA) gần Benares- quán tưởng hình ảnh Đức Phật thuyết giảng cho năm người bạn đạo Kiều Trần Như (KONDANNA - BHADDIYA - VAPPA - MAHANAMA và ASSAJI), về tính chất vô thường của vạn pháp và con đường trung đạo trong bài Kinh Chuyển Pháp Luân , đưa vào Tăng đoàn đầu tiên của Tam Bảo.
Nhóm chúng tôi cũng được dịp vuốt ve và cho đàn nai đang ngơ ngác đợi chờ người cho thức ăn xuyên qua hàng rào kẽm gai của khu Lộc Uyển xinh đẹp một thời vang bóng!
Chúng tôi được ngắm nhìn nhiều tượng Phật cổ xưa, tượng sư tử bốn đầu trong bảo tàng viện khảo cổ Lộc Uyển, đi thăm Viện Phật học quốc tế, các chùa tàu, Tây Tạng, Miến Điện, Nhật Bản và tại Ba la nại, chúng tôi được đến dòng sông Hằng (GANGES) linh thiêng huyền bí và buổi sáng sớm để ngắm cảnh mặt trời mọc lúc bình minh và tận mắt thấy cảnh sinh hoạt truyền thống ( đốt xác chết, lễ thần lửa, hành thiền giữa dòng sông…vv…)
Bằng xe Cáp chúng tôi đã vượt qua các mỏm đá của núi Kỳ Xà Quật, Linh Thứu Sơn
(GIJJHAKIITA) gần thành Vương Xá ( RAJAGAHA) cũ để lên tháp Hòa Bình do Phật giáo Nhật Bổn đến xây. Sau khi vào lễ Phật tại chánh điện, chúng tôi bước xuống chân núi bằng các bậc tam cấp để chiêm bái Linh Thứu Sơn.
Mãi đến bây giờ, khi viết những lời tâm ký này, chúng tôi cũng không ngờ được rằng mình đã có diễm phúc đến được nơi đây, Đạo tràng Pháp Hội linh thiêng, nơi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã giảng bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Kinh Thần Chú Lăng Nghiêm Đại Định , Kinh Bát Nhã Ba Là Mật… chứa đựng tinh hoa của giáo lý Phật Đà!
Nơi đây cũng đã có dấu chân của Ngài Huyền Trang đến ngủ qua đêm. Cũng nơi đây, tâm đã chuyển tâm, khi đức Như Lai đưa cành hoa lên mà cả hội chúng chỉ có Ngài Ca Diếp ( KASSAPA) thông đạt được.
Hang của Ngài Annan, Ngài Đại Ca Diếp (MAHA KASSAPA) ở đây! Hang của Ngài Xá Lợi Phất (SARIPUTTA), Ngài Mục Kiền Liên ở đây! Vườn xoài của Bác Sĩ Kỳ Đà (KOMARABHACCA) một danh y lỗi lạc thời đức Phật ở đây! Nơi đây chân Đức Thế Tôn đã bị đổ máu vì người em họ ngũ nghịch Đề Bà Đạt Đa (DEVADATTA)! Nơi đây, đoàn tùy tùng dừng lại để vua Tần Bà Sa La (BIM BI SA RA), vua xứ Ma Kiệt đã xuống ngựa đi bộ để lên hầu thăm Đức Phật. Thật là một nơi chốn lịch sử bi hùng!
Chúng tôi cũng đã đến Trúc Lâm Tịnh Xá (VELUVANA),với những bụi trúc xanh, hồ nước trong mà vua Tần Bà Sa La dâng cúng cho Đức Phật và Thánh chúng. Nơi đây, Đức Thế tôn thường đến giảng pháp và độ sanh. Ôi! biết bao nhiêu là ân tình và cảm niệm!
Viện Đại học Na Lan Đà (NALANĐA) cũng cho tôi một ấn tượng mạnh mẽ, vì Na Lan Đà đã là một viện đại học có tầm cỡ quốc tế , cả về chất lẫn lượng- cũng là Viện Đại học Phật giáo đầu tiên trên thế giới. Nơi đây, các vị luận sư nổi tiếng xưa kia như Ngài Long Thọ, (NAGA JUNA), Trần Na (DIGNAGA)… từng giảng dạy; là nơi nhiều vị tổ thiền Ấn Độ lưu trú; là nơi các nhân vật kiệt xuất, có khi là giảng viên, có khi là Tăng Sinh như Ngài Huyền Trang (XUÂNZHWANG) Thánh Thiên (ARYADEVA), Mã Minh (ASVAGOSA), Vô Trước (ASANGA), Thế Thân (VASUBANDHU), Hộ Pháp (Vị cao tăng Tích Lan), giới Hiền (BUDDHA BHA DRA), Pháp Hiển (FAXIAN)… từng đến tu học và giảng dạy …Tăng sinh của Viện không những học tập kinh điển mà còn phải thực hành những nghi lễ và các pháp tu thiền định. Nhưng nay sự hoang tàn của một công trình vĩ đại đã để lại trong lòng chúng tôi một mối cảm hoài sâu đậm…
Và sau cùng, chúng tôi không thể nào quên được tháp Trà Tỳ ở Câu Thì Na (KUSHIBAGAR), nơi hỏa thiêu nhục thân của Đức Phật, nay đã bị tàn phá, hiện được bao bọc bởi một công viên đẹp đẽ. Sau khi kinh hành và lễ lạy quanh đại tháp chính, chúng tôi ngồi quanh Thầy chúng tôi, mắt rưng lệ lắng nghe lời giảng dạy của thầy, bồi hồi xúc động và thầm mong ước được ở lại đây mãi mãi, được tu tập hành trì dưới bóng từ bi và dư hương của bậc Đại Giác.
Và như lời Pháp Đức Phật đã ban dạy, tính chất của vạn pháp là Vô Thường, Vô Ngã; vạn pháp đều xoay theo vòng tròn “ Thành Trụ Hoại Không “, chuyến hành hương xứ Phật của chúng tôi sắp đến ngày kết thúc.
Lòng quyến luyến càng thấm đậm hơn sau năm ngày dự lễ khánh thành tại Trung Tâm Viên Giác đẹp đẽ, hùng tráng, trọng thể của Thượng Tọa Thích Như Điển, với sự hiện diện của Chư Tôn Hoà Thượng, Thượng Toạ, Đại Đức Tăng Ni cùng các Tăng Ni du học sinh với hàng trăm Phật tử khắp nơi trên thế giới đồ về tham dự.
Đại lễ khánh thành Đại Giới đàn Minh Hải và Đại Lễ Chẩn tế Cô hồn cùng buổi phát chẩn cho người nghèo làm cho chuyến hành hương thêm thập phần ý nghĩa ! Phái đoàn chúng tôi cũng đã đến thăm các ngôi chùa Việt Nam tại Ấn: Việt Nam Phật quốc tự rộng rãi, tráng lệ của thầy Huyền Diệu và ngôi chùa Song Lâm Linh Sơn của Hoà Thượng Huyền Vi do sư cô Trí Thuận, một tu sĩ đầy năng lực, tháo vát, hiếu khách và rất dễ thương trụ trì. Ngoài ra phái đoàn cũng đến thăm chùa Linh Sơn đồ sộ, đẹp đẽ của thầy Linh Quang gần Công viên Lâm Tì Ni (LUMBINI) thuộc lãnh thổ Nepal. Các chùa Việt Nam đều rộng, đẹp, tiện nghi là nơi trú ngụ tốt đẹp cho Phật tử Việt Nam khi hành hương đến các vùng này.
Ngoài ra cuộc gặp gỡ tâm tình của chúng tôi tại Delhi với gần 60 Tăng Ni sinh từ Việt Nam sang Ấn du học, giúp thắm đượm thêm tình cảm đạo vị. Những tâm cảm chứa chan đã gieo trong lòng toàn thể Phật tử chúng tôi một niềm xúc động vô biên, một sự hoan hỉ vô bờ đã làm tăng tiến lòng tín thành trong tâm hồn người con Phật.
Chúng con muôn vàn cảm tạ quý Hoà Thượng, quý Thượng Toạ đã ban cho chúng con những đạo từ cao cả, những giây phút đạo vị quý báu. Và đặc biệt, chúng con vô cùng cảm niệm công đức của thầy Thích Quảng Ba, một bậc cao tăng đa tài, đa năng đã hướng dẫn, giảng dạy, chăm sóc hòa đồng với chúng con trong suốt quãng đường xa muôn dặm và đường dài giáo pháp.
Chúng con cũng xin cảm tạ quý thầy Chơn Phát, Quảng Thức, Chơn Tâm, quý sư cô Đồng Nguyên, Nhật Hạnh cùng đi vào giúp đỡ chúng con trong suốt cuộc hành trình tìm về xứ Phật.
Những giờ phút văn nghệ thoải mái, vui tươi; những giờ phút căng thẳng lo âu cho anh Tâm Cần đi lạc đoàn một đêm, là những kỷ niệm không bao giờ quên được mỗi khi hồi tưởng lại chuyến đi kỳ diệu đầm ấm này.
Những kỷ niệm và tâm tình vui buồn bên nhau sẽ còn đọng mãi trong trái tim chúng con cho đến cuối cuộc đời! Chúng con xin đem hết tâm sức để học hỏi Đạo Pháp và trau dồi Đạo hạnh để đáp trả phần nào công ơn của Thượng Toạ, của quý Thầy, quý Sư Cô đã dẫn dắt chúng con trên bước đường tu học.
Chúng con ước mong quý Thầy sẽ còn hướng dẫn Phật tử chúng con nhiều chuyến hành hương, nhiều thắng tích Phật giáo khác trên thế giới để chúng con được chiêm bái và mở rộng kiến thức về Đạo Giác Ngộ Giải Thoát.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát
Phật Tử Tâm Huệ
(Sydney, 25/4/2002)
(Chuyến hành hương Phật tích tại Ấn độ tháng 3 năm 2002)