Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hướng về thành đạo

02/01/201211:00(Xem: 2880)
Hướng về thành đạo
phatthanhdao-01

HƯỚNG VỀ THÀNH ĐẠO

Thích Thái Hòa

ducthichcathanhdao3smĐức Thế Tôn thành đạo bằng con đường nào? Bằng con đường chí thiện, có nội dung đoạn trừ các lậu hoặc, để thành tựu Niết-bàn và giáo hóa chúng sanh.

- Điểm Đến Chí Thiện

Sau những ngày từ bỏ vương cung, cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc, làm người xuất gia, Thế Tôn nói: “Mặc dù cha mẹ không bằng lòng, than khóc nước mắt đầy mặt, ta vẫn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống đời sống thoát ly gia đình. Ta xuất gia như vậy, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, đi tìm con đường vô thượng tối thắng, hướng đến tịch tịnh”.[1]

Như vậy, điểm cùng đích mà khi xuất gia Thế Tôn hướng tới là điểm chí thiện. Cùng đích của chí thiện là Diệt đế tức là Niết-bàn hay tịch tịnh tuyệt đối. Vì sao? Vìnó là đời sống không còn bị sanh, già, bệnh, chết chi phối. Cùng đích của chí thiện là vô sanh, bất diệt, nơi không còn bất cứ một bóng dáng nào của tham dục và ngã tưởng.

- Đường Lớn Mở Ra

Thế Tôn đã đi đến cùng đích của chí thiện bằng con đường nào? Bằng con đường Thánh đạo tám chi.

Dođi trên cao đường nầy, Thế Tôn đã vượt ra khỏi hai cực đoan là khổ hạnhép xác và buông lung trong các dục. Sống với đời sống ép xác khổ hạnh, khiến con người có cái nhìn lãnh cảm với cuộc đời và hờ hững với những gì đang hiện hữu; và sống với tâm buông lung trong các dục, khiến cho con người quá nhiệt tình với các nhu cầu của lòng tham, nên bị mù quáng và chết điếng bởi nó.

Nên, Thánh đạo tám chi, con đường vượt ra khỏi hai cực đoan ấy, để đi đến cùng đích của chí thiện và Thế Tôn đã điđến cùng đích ấy bằng con đường nầy.

Vì vậy, đức Thế Tôn nói: “Nầy các Tỳ-kheo! Quý vị tu tập, cần phải từ bỏ hai cực đoan ấy. Tôi sẽ nói cho quý vị biết về con đường Trung đạo, quý vị phải hết lòng nghe, ghi nhớ và nỗ lực thực hành!

Thế nào là con đường Trung đạo? Đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Con đường đủ tám yếu tố như vậy, gọi là Trung đạo. Đây là con đường đi tới an lạc, trí tuệ,giác ngộ và Niết-bàn”. [2]

Như vậy, Thế Tôn thành đạo là do Ngài đã tự mình đi trên con đường nầy và con đường lớn đã mở ra, dẫn Ngài đến chỗ an lạcchí thiện, trí tuệ minh triệt, giác ngộ tối thượng và Niết-bàn tuyệt đối.

- Đoạn Trừ Lậu Hoặc Và Chứng Tam Minh

ThếTôn đoạn trừ các lậu hoặc bằng con đường nào? Bằng con đường thiền quánvới sự có mặt của Chánh tư duy, sau khi đã đi qua hỷ lạc, do các loại thiền định từ Sơ thiền đến Tứ thiền đem lại, Ngài dừng lại ở nơi Tứ thiền, với tâm thuần tịnh, không còn các bóng dáng của khổ thọ, lạc thọ,ưu thọ, hỷ thọ và niệm tưởng, và bấy giờ Ngài đi vào thiền quán, lấy “lão tử” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “sanh”; lấy “sanh” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “hữu”; lấy “hữu” làm đối tượng tư duy để thấy rõ“thủ”; lấy “thủ” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “ái’; lấy “ái” làm đốitượng tư duy để thấy rõ “thọ”; lấy “thọ” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “xúc”; lấy “xúc” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “lục nhập”; lấy “lụcnhập” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “danh sắc”; lấy “danh sắc” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “thức”; lấy “thức” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “hành”; lấy “hành” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “vô minh”; lấy “vô minh” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “vô minh” diệt, thì “hành”diệt; “hành” diệt, thì “thức” diệt; “thức” diệt, thì “danh sắc” diệt; “danh sắc” diệt, thì “lục nhập” diệt; “lục nhập” diệt, thì “xúc” diệt; “xúc” diệt, thì “thọ” diệt; “thọ” diệt, thì “ái” diệt; “ái” diệt, thì “thủ” diệt; “thủ” diệt, thì “hữu” diệt; “hữu” diệt, thì “sanh” diệt; “sanh” diệt, thì “lão tử” diệt.

Sau khi đã tư duy và thấy rõ như vậy, Ngài liền thấy và biết một cách như thật rằng, chính “ái, thủ và hữu” là tác nhân và tác duyên hiện tại để “sanh lão tử” có mặt; và “vô minh, hành” là tác nhân, tác duyên quá khứ để cho “thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ” có mặt, và toàn bộ “khổ uẩn” đời nầy và đời sau có mặt, nên Ngài đã dùng năng lực của Giới, Định và Tuệ hay các yếu tố trợ đạo và chánh đạo, để chặt đứt “ái, thủ và hữu”; chặt đứt “vô minh và hành”, khiến các lậu hoặc đều dứt sạch; và bằng tuệ giác, Ngài đã soi chiếu vào tự thân, thấy rõ nhân duyên của mình, từ một kiếp, hai kiếp cho đến vô lượng kiếp, trong quá khứ với tên như vậy, với dòng họ như vậy, với cha mẹ như vậy, với quốc độ như vậy, với hành nghiệp như vậy...với sự thấy rõ như vậy,gọi là Túc mạng minh. Ngài đã chứng minh nầy, cuối canh một của đêm Thành đạo.

Tiếp tục thiền quán, Ngài dùng tuệ giác để soi chiếu nhân duyên và nghiệp quả của chúng sanh, Ngài đã thấy rõ nhân duyên và nghiệp quả của những loài chúng sanh sinh ra từ sựẩm ước; từ trứng; từ thai; và từ sự biến hóa. Sự thấy rõ như vậy, gọi là Thiên nhãn minh. Ngài chứng minh nầy vào cuối canh hai của đêm Thành đạo.

Ngài vừa chứng Thiên nhãn minh, thì ngay lúc ấy, sấm sét nổ tung vang trời, mưa bắt đầu tuôn xuống xối xả. Nhưng Ngài vẫn điềm nhiếnbất động, dẫn tâm hướng đến Lậu tận trí và biết đúng như thật: đây là khổ; đây là tập khởi của khổ; đây là sự vắng mặt của khổ; và đây là con đường chấm dứt sự khổ.

Sau khi đã có Chánh kiến như vậy rồi, Ngài lại tiếp tục quán chiếu để thấy rõ:

“Đây là những ước muốn mê lầm. Đây là những kiến thức mê lầm. Đây là những mê lầm do vô minh.

Đâylà nguyên nhân của sự ước muốn mê lầm. Đây là nguyên nhân của những kiến thức mê lầm. Đây là nguyên nhân của sự mê lầm do vô minh.

Đâylà sự vắng mặt của những nguyên nhân mê lầm. Đây là vắng mặt nguyên nhân của những kiến thức mê lầm. Đây là sự vắng mặt của những nguyên nhân sinh khởi vô minh.

Đây là con đường đưa đến sự diệt tận những ước muốn mê lầm. Đây là con đường đưa đến sự diệt tận những kiến thức mê lầm. Đây là con đường đưa đến sự diệt tận những mê lầm do vô minh”.

Bằng con đường thiền quán, soi rọi tâm thức như thế, Ngài đã loại trừ hết thảy dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Ngài tự biết mình đãgiải thoát hoàn toàn, không còn bị ràng buộc bởi bất cứ lậu hoặc nào vàtự tuyên bố:

“Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc đáng làm đã làm xong, vĩnh viễn không còn tái sanh nữa”.

VớiChánh kiến đối với các lậu hoặc ở nơi tự tâm như vậy, gọi là Lậu tận minh. Ngài đã chứng được minh nầy, vào cuối canh ba của đêm Thành đạo.

Cùngngay lúc ấy, Ngài quán chiếu, thấy rõ mọi nhân duyên của hết thảy mọi ngôn ngữ và âm thanh, nên Ngài đã chứng Thiên nhĩ thông. Tiếp tục thiền quán, Ngài chứng được Tha tâm thông, biết rõ tâm của hết thảy chúng sanh. Và ngay sau đó, Ngài chứng luôn Thần túc thông, không còn bất cứ một chướng ngại nào đối với bước chân đi của Ngài.

Chướng ngại đã qua, nắng ấm đã lên, Ngài nhìn muôn vật mỉm cười và tự nhủ:

“Cửa vô sanh bất diệt đã mở ra, Đạo lớn đã thành”. Bấy giờ là vào ngày mồng 8 tháng 12 âm lịch, lúc Ngài 35 tuổi.[3]

- Thành Đạo Và Hoằng Pháp

Saukhi đức Thế Tôn, đoạn sạch hết thảy lậu hoặc, chứng đắc Tam minh và thành tựu Lục thông, Ngài thành bậc Như Lai, A-la-hán, bậc Vô thượng giác với đầy đủ mười phẩm tính giác ngộ.

Ngài nói: “Này các Tỳ kheo! Trong toàn thể thế giới, Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiên và loài Người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị chiến bại, toàn tri, toàn kiến, được tự tại, do vậy được gọi là Như Lai”.[4]

Và ở trong kinh Mật Hoàn, đức Thế Tôn đã khẳng định sự thuyết pháp của Ngài cho những người chất vấn rằng: “Ngài thuyết pháp không phải để tranh luận với một ai giữa đời”.[5] Và Tôn giả Mahakaccana đã nói cho các hiền giả về sự thuyết pháp của Thế Tôn rằng: “Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần phải thấy, Ngài trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành Brahma, vị thuyết giả, diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp chủ, NhưLai”. [6]

Sau khi thành đạo, với cái biết như vậy, với cái thấy như vậy, với Chánh pháp như vậy... sau nhiều tuần lễ yên lặng quán chiếu, Ngài đã thương đời, thương chúng sanh chìm đắm trong vô minh khổ hải sinh tử, nên Ngài đã đến vuờn Nai để chuyến vận Pháp luân, kêu gọi năm anh em Kiều Trần Như, nên từ bỏ hai cực đoan: một là ép xác khổ hạnh; hai là buông lung trong các dục; và hãy thực hành Trung đạo là Bát chánh đạo. Sau đó Ngài chuyểnvận pháp luân Tứ Thánh Đế ba lần gồm: thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển với đầy đủ mười hai hành tướng cho năm anh em Kiều Trần Như. Từ đó Phật, Pháp, Tăng có mặt một cách đầy đủ cả sự và lý ở trong thế gian. Phật là đấng Thế Tôn, Pháp là Bát Thánh đạo, trục quay của Tứ Thánh Đế và Tăng đoàn có mặt đầu tiên là năm anh em Kiều Trần Như, được thiết lập trên nền tảng Thánh đạo với bản thế thanh tịnh và hòa hợp.

Bấygiờ, Tăng đoàn của Thế Tôn càng ngày càng lớn mạnh, chánh pháp càng lúccàng được tuyên dương rộng rãi, rạng ngời khắp xứ Ấn độ bấy giờ.

Đốivới sự nghiệp hoằng pháp, đức Thế Tôn dạy: “Như Lai hay đệ tử Như Lai thuyết pháp để bạt trừ tất cả nỗ lực thiên kiến, tùy miên về mọi chấp trước kiến xứ, sự an tịnh của mọi hành động, sự vứt bỏ mọi chấp trước, sự diệt trừ khát ái, để đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn”.[7]

Nhưvậy, sau khi thành đạo, đối với con đường hoằng pháp, Ngài nói: “Ngài thuyết pháp không quan tâm đến sự tôn trọng hay không tôn trọng của thế gian mà vì là trách nhiệm của Ngài đối với đời”.[8]

Nói một cách khác, vì thương chúng sanh thọ khổ mà Phật có mặt ở trong thế gian và thuyết pháp, giáo hóa đem lại Chánh kiến và sự an ổn cho cõi đời. Trong sự giáo hóa và thuyết pháp của Ngài đã có sự thống nhất và xuyên suốt một mục đích duy nhất như Ngài nói: “Chư Tỳ kheo! Xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ”.[9]

Với lý tưởng hoằng pháp đểdiệt khổ cho chúng sanh, Thế Tôn sau khi thành đạo, Ngài đã lên đường chuyển vận bánh xe chánh pháp đầu tiên tại vườn Nai và thành lập Tăng đoàn, để cùng Ngài hoằng pháp, đem những điều tốt đẹp, cao quý do Ngài đã giác ngộ truyền bá cho nhân loại khắp cả muôn nơi.

Giáo lý do Ngài giảng dạy không hề có sự tranh hơn thua với ai, mà chỉ nhắm thẳng tới sự diệt tận khổ đau cho con người, nếu con người biết chấp nhận pháp, nương tựa pháp và hành trì theo pháp, thì nhất định ngay trong đờisống nầy khổ đau sẽ bị diệt tận.

Ở trong các kinh điển, đức Phậtđã dạy rằng: “Những ai đến với Ngài không phải để nói hay để tranh cãi mà đến để thấy và chứng ngộ”.

Tăng đoàn có mặt giữa cuộc đời và đi khắp thế gian, cũng chỉ vì mục đích ấy, chứ không vì bất cứ mục đích nào khác. Nghĩa là không tranh giành hơn thua với ai, với đoàn thể nào, mà chỉvì lợi ích và an lạc cho đa số; vì lòng thương đối với cuộc đời, mà thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sanh không bị tham dục, sân hận và si mê ám hại, như đức Phật nói ở trong kinh Đại bổn:

“Nàycác Tỳ kheo! Hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng với đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài người, loài trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ.

Nàycác Tỳ kheo! Hãy thuyết giảng Chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe giảng Chánh pháp sẽ bị nguy hại”.[10]

- Kỷ Nguyên Mới

Nhưvậy, ta thấy ngày Thành đạo của đức Thế Tôn đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới. Một kỷ nguyên của Chánh kiến, thấy rõ thế gian là vô thường và những gì cấu tạo nên nó chỉ là do quan hệ duyên khởi và trống rỗng tự ngã. Những nỗi khổ đau của con người ở trong thế gian không do một ai có thẩm quyền áp đặt, mà chính là do lòng tham dục, tính hận thù và sự kiêu căng nơi tâm họ tạo nên.

Tâm cũng vô thường như bất cứnhững sự vô thường nào ở trong thế gian, nên những khổ đau của con người không phải là tuyệt lộ. Nó có thể thay đổi khi nhân và duyên của của nó được thay đổi. Nhân và duyên làm thay đổi khổ đau của thế giới con người là Bát Thánh Đạo. Thực hành Bát Thánh Đạo, do đức Phật công bốtại vườn Nai, sau khi Ngài thành đạo, trong thời thuyết giảng đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như, thì những khổ đau của thế giới con người sẽ bị diệt tận.

Nên, ngày Thành đạo của Thế Tôn đã mở ra cho nhânloại, một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên của Chánh kiến, Chánh tư duy,...từ bậc Giác ngộ hoàn toàn. Và một niềm tin mới, một niềm tin mọi khổ đau của con người có thể diệt tận và hạnh phúc, an lạc của con người có thể có mặt ngay trong đời sống này.

Lại nữa, ngày Thành đạo của đức Thế Tôn lại mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên từ bỏ mọi huyền đàm, suy tưởng, và phải biết đối diện với cái thực tế trướcmắt, là khổ và diệt khổ, bằng con đường thực nghiệm, đoạn tận phiền nãoở nội tâm, chứ không phải bằng con đường nô lệ thần linh qua việc tế tự, lễ nghi để cầu xin ban ân sủng hay tìm cầu chạy bươn theo hướng trụcvật.

Lại nữa, ngày Thành đạo của đức Thế Tôn, đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên của ý thức tự giác và tự nguyện. Tự giác và tự nguyện học đạo, tự giác và tự nguyện tầm đạo, tự giác và tự nguyện ứng dụng đạo, tự giác và tự nguyện chứng đạo, tự giác và tự nguyện hoằng đạo, để đem lại sự an bình và tốt đẹp cho cuộc đời.

Chínhý thức tự giác, tự nguyện ấy là khởi điểm cho mọi nền tảng hạnh phúc vàvăn minh của nhân loại. Con người không thể nào có hạnh phúc, khi bị người khác sai sử. Nếu bị người khác sai sử làm vua, làm tổng thống, làmngười xuất gia cho đến ngay cả bị sai sử làm hòa thượng đi nữa, vẫn bị khổ đau như thường. Nó khổ đau, vì những việc làm ấy không có gốc rễ từ ýthức tự nguyện và tự giác. Và xã hội loài người không thể nào có văn minh, tiến bộ, nếu trong những lãnh vực sinh hoạt của chúng, thiếu ý thức tự giác và tự nguyện này.

Vì vậy, ngày Thành đạo của đức ThếTôn là ngày mở ra một kỷ nguyên mới, về đời sống ý thức tự giác và tự nguyện để làm lực đẩy xã hội loài người đi lên.

Và ngày Thành đạocủa đức Thế Tôn là ngày không những mở đầu cho sự có mặt của trí tuệ toàn hảo của bậc Đại Giác Ngộ, mà còn là ngày khởi đầu hạnh nguyện đại bi và trách nhiệm giáo hóa của Ngài đối với muôn loài như Ngài đã nói:

“Ngàithuyết pháp không quan tâm đến sự tôn trọng hay không tôn trọng của thếgian mà vì là trách nhiệm của Ngài đối với đời”.[11]

Với trách nhiệm ấy, không đến với Ngài từ bất cứ quyền uy nào, mà từ ý thức tự nguyện, tự giác với đầy đủ hai chất liệu của đại trí và đại bi, khiến cho ngày thành đạo của Ngài đối với nhân loại là một nhu cầu khẩn thiết và trở thành bất tử trong lịch sử văn minh củathế giới con người.

Lịchsử ấy chỉ có nghĩa đích thực, khi nào những người đệ tử của Ngài, có đời sống biết nương tựa Pháp, học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, sống với đời sống như vậy, thì không có đời sống nào cao quý hơn; biết cúng dường Phật bằng học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ sự cúng dường nào cao hơn; biết thiết lập đạo tràng để học Pháp, hành theo pháp và chứng ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ sự thiết lập nào cao hơn; biết thương yêu và phụng sự cuộc đời bằng cách học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ sự thương yêu và phụng sự nào cao hơn;và biết làm lễ kỷ niệm ngàythành đạo của đức Thế Tôn, bằng cách học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ lễ kỷ niệm nào có ý nghĩa cao hơn nữa cả.

Vì vậy, là đệ tử Thế Tôn, chúng ta phải tu học tinh cần, để thấy Pháp và chứng ngộ Pháp, khiến mọi không gian đều là không gian của đạo, và khiến cho mọi thời gian đều là thời gian thực nghiệm đạo và chứng đạo, như Thế Tôn đã chứng và đã thành.

Đó là ý nghĩa hướng về và kỷ niệm ngày Thế Tôn thành đạo của những hàng đệ tử Phật chúng ta.

CHÚ THÍCH
[1] Kinh Thánh Cầu, Trung bộ I, tr 163, ĐHVH 1973.
[2] Phật Thuyết Tam chuyển pháp luân kinh, số 110, Đại Chính 2.
[3]Tham khảo Kinh Thánh Cầu, Kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc, Trung bộ I, ĐHVH, 1973. Phẩm Phật Đà, Tương Ưng Bộ II, ĐTKVN, 1993. Phật Bản Hạnh Tập Kinh31, 32, Đại Chính 3.
[4] Kinh Phật Thuyết Như Vậy, Tiểu Bộ I, Tu Thư PHVH 1982.
[5] Kinh Mật Hoàn, Trung Bộ I, tr109A, ĐHVH 1973
[6] Kinh đã dẫn như trên tr 111A.
[7] Kinh Xà Dụ, Trung Bộ I, tr 136B, ĐHVH, 1973.
[8] Kinh đã dẫn, tr 140A.
[9] Kinh đã dẫn, tr 140.
[10] Kinh Đại Bổn, Trường Bộ III, tr 45, ĐHVH, 1972.
[11] Kinh Xà Dụ, Trung Bộ I, tr 140A, ĐHVH, 1973.

(Tập san Pháp Luân 70)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/12/2020(Xem: 4725)
Chùa Hạnh Nghiêm là nơi trú xứ tu học yên bình của chư Ni trẻ, nằm biệt lập khiêm nhường bên trong khuôn viên rộng lớn, trong đó còn có chùa Trí Nghiêm dành riêng cho chư Tăng như một chỗ dựa tinh thần to lớn và che chở, dìu bước nhau trên bước đường tu học ( ảnh 1, và ảnh chánh điện chùa Hạnh Nghiêm ).
06/10/2020(Xem: 11436)
Giúp Phật hoằng pháp độ quần sanh, Quán sâu Bát-nhã trí tuệ thành. Năm uẩn đều không, trừ nhân ngã, Ba độc dứt rồi hiện Phật, Tăng. Điều tâm, lìa tướng, phá chấp pháp, Bỏ Tiểu theo Đại, đạo viên thành. Hiện tướng tỳ-kheo dạy bảo chúng, Lập thành công lớn chẳng kể công.
27/03/2020(Xem: 4374)
Muốn thành một vị Phật, một người tu hành phải trải qua ba nguyên tắc đào luyện tu tập; nếu không hoàn thành ba nguyên tắc này thì người đó dù ở địa vị nào ở cấp bực nào đem xét nghiệm thì sẽ nhận biết họ không bao giờ được thành Phật.
28/02/2020(Xem: 11761)
Cõi trời Đâu Suất Bồ Tát giáng trần Khi quán Sa Bà nhân duyên hội đủ Hoàng hậu Ma Da nằm mộng đêm đó Thấy Voi Sáu ngà nhập ở bên hông
02/01/2020(Xem: 4441)
Một sáng tinh sương ..... Đức Thế Tôn thành đạo . Phiền não đoạn tận, chiến thắng ma quân , Ánh sáng Giác Ngộ lan tỏa đến tha nhân Gieo rắc niềm tin ...khổ đau được chuyển hoá !
24/12/2019(Xem: 4686)
Ngày thành đạo của đức Thế Tôn cách đây 26 thế kỷ, đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới. Một kỷ nguyên của chánh kiến, thấy rõ thế gian là vô thường và những gì cấu tạo nên nó chỉ là do quan hệ duyên khởi và trống rỗng tự ngã. Những nỗi khổ đau của con người ở trong thế gian không do một ai có thẩm quyền áp đặt, mà chính là do lòng tham dục, tính hận thù và sự kiêu căng nơi tâm họ tạo nên. Tâm cũng vô thường như bất cứ những sự vô thường nào ở trong thế gian, nên những khổ đau của con người không phải là tuyệt lộ. Nó có thể thay đổi khi nhân và duyên của nó được thay đổi. Nhân và duyên làm thay đổi khổ đau của thế giới con người là Bát Thánh Đạo. Thực hành Bát Thánh Đạo, do đức Phật công bố tại vườn Nai, sau khi Ngài thành đạo, trong thời thuyết giảng đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như, tại vườn Nai thì những khổ đau của thế giới con người sẽ bị diệt tận.
24/12/2019(Xem: 6794)
Xưa và nay, trong lịch sử của nhân loại, tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân. Nhờ trải qua các quá trình kham nhẫn, tu, học, và giúp đỡ cho tự thân và tha nhân như vậy, thì họ mới có thể trở thành những nhà khoa học, toán học, văn học, triết học, đạo học, v. v… Bồ-tát Tất-đạt-đa Gautama,[1] một vị đạo Sư tâm linh hoàn hảo, có đầy đủ đức hạnh, từ bi, và trí tuệ, trải qua 6 năm tu khổ hạnh rừng già với năm anh em Ông A-nhã Kiều-trần-như. Sau một thời gian tầm sư học đạo, Bồ-tát, một con người xuất chúng bằng xương bằng thịt, đã tìm ra chân lý bằng cách thiền định tại Bồ-đề-đạo-tràng suốt 49 ngày đêm, và chứng ngộ viên mãn dưới cội cây Bồ-đề. Lúc đó, Bồ-tát trở thành Phật hiệu là Thích-ca-mâu-ni, một đức Phật lịch sử, có mặt trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, được chư thiên và loài người tôn kính, có khả năng đem
24/10/2019(Xem: 7966)
Bài viết này để trả lời một câu hỏi: Làm thế nào để ngộ? Ngộ đây là ngộ tông chỉ Thiền, tức ngộ tông chỉ Phật. Người viết không dám trả lời minh bạch, vi bản thân tu và học đều chưa sâu, nơi đây chỉ trình bày qua nhiều kinh luận để giúp độc giả tham khảo.
23/10/2019(Xem: 6308)
Cách đây hai mươi mấy măm về trước, khi chưa bước vào ngôi nhà Phật Pháp.... ( chưa quy y Tam Bảo ) không hiểu sao hai vị Phật tôi thường cầu nguyện và được sự linh ứng nhất là Đức Quán thế Âm Bồ Tát và Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, và đặc biệt trong 12 đại nguyện của Phật Dược Sư tôi chỉ thích đọc đi đọc lại nguyện thứ ba, thứ sáu, thứ bảy và thứ tám vì có lẽ lúc ấy tôi chỉ biết lo cho tấm thân làm người nữ và những bịnh tật đau nhức dai dẳng đeo đuổi mãi không thôi.
13/10/2019(Xem: 11240)
Người tu Phật ai ai cũng có đức tin, nhưng nếu không rõ được rành mạch những lịch sử hoặc những hành vi của các vị Bồ tát phải hành thế nào để thành được một bậc Chánh Đẳng Chánh Giác và do nhờ pháp Ba-la-mật (PÀRAMITA) nào đưa các ngài qua tới bờ giác ngạn là Niết Bàn, thì đức tin ấy có khi cũng mơ hồ và có khi cũng lầm lạc. Vì vậy nên tôi không nệ tài hèn học kém, ráng sao lục tóm tắt theo Tam Tạng Pàli (TIPITAKA) bộ kinh Chánh giác tông (BUDDHAVAMSA) và quyển Chư Bồ tát vị lai (ANÀGATAVAMSA) để đem lại một vài tia sáng cho các nhà tu Phật. Ai là người có chí muốn thành một bậc Chánh Biến Tri, hãy noi theo gương lành của các Ngài và thực hành theo mới mong chứng quả được. Trong quyển kinh này có nhiều đoạn hơi khó hiểu hoặc không thể tin được vì oai lực và pháp Ba-la-mật của một vi Phật Tổ khác Thường xuất chúng và thời đại cũng khác nhau vượt qua khỏi trình độ suy nghĩ hoặc hiểu biết của phàm nhơn. Nên độc giả xem quyển kinh này nên dùng đức tin mà hiểu biết rằng: "Muốn thà
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567