Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Khái niệm giác ngộ trong đạo Phật - Thích Nữ Liên Hòa dịch

16/05/201313:35(Xem: 2527)
6. Khái niệm giác ngộ trong đạo Phật - Thích Nữ Liên Hòa dịch


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần I

Bản chất và con đường Giác Ngộ

--- o0o ---

KHÁI NIỆM GIÁC NGỘ TRONG ĐẠO PHẬT

S. K. Nanayakkara
Thích Nữ Liên Hòa dịch

Đức Phật là vị tiên phong đã thành công trên bước đường tìm cầu mục đích giải thoát, trong khi đó những vị A-la-hán khác hành theo pháp của Ngài, do vậy những vị ấy cũng được gọi là những Bậc Giác Ngộ sau sự giác ngộ của đức Phật (buddh nubuddh).

Thuật ngữ "Bodhi" bắt nguồn từ ngữ căn "budh" (thức tĩnh)1hàm nghĩa là trí tuệ (–  ?a), giác ngộ hay trí tuệ mà Đấng Giác Ngộ, (Đức Phật) đạt được.2Thông thường, Bồ-đề bao gồm bảy pháp tu tập đưa đến Giác ngộ (P li, Bojhaơ ga; Skt. Bodhyaơ ga, Thất Giác chi) và sự chứng đắc giác ngộ thông qua các nguyên lý dẫn đến sự chín muồi của tỉnh thức. (P li, bodhipakkhik -dhamm hoặc bodhi-p can -dhamm ; Skt. bodhi-pak?y -dharma). Bên cạnh đó, trong ý nghĩa đặc biệt của giác ngộ, thuật ngữ "Bồ-đề" (Bodhi) còn được dùng để nói đến sự giác ngộ của chư Độc Giác Phật.3Đôi khi, thuật ngữ sambodhi(sự giác ngộ viên mãn)cũng được dùng diễn đạt sự giác ngộ của Đức Phật, chư Độc Giác Phật, và các vị A-la-hán. 4Tuy nhiên, trong trường hợp để phân biệt sự giác ngộ của chư Phật Độc Giác và các vị A-la-hán, thuật ngữ abhisambodhi (Vô thượng đẳng giác) và samma-sambodhi (chánh đẳng giác) được dành chỉ riêng cho giác ngộ của Đức Phật.

Tam tạng Nik ya cũng như văn học sớ giải đã nỗ lực giải thích ý nghĩa chuẩn xác thuật ngữ bồ-đề (bodhi). Vì thế, theo Saị yutta-Nik ya,5bồ-đềchính là đạt được trí tuệ về Bốn Điều Chân Thật Vi Diệu (Tứ Thánh Đế). Mặt khác, giác ngộ là con đường6(có nghĩa là Tám Con Đường Chân Chánh). Giác ngộ được giải thích như là sự thấu suốt bốn điều chân thật cao quý, đó là Bốn Điều Chân Thật Vi Diệu.7

Chứng đạt giác ngộ là thể nghiệm cá nhân và vì vậy chỉ có người đạt ngộ mới thấu triệt bản chất và ý nghĩa của giác ngộ. Lại nữa, nhiều đoạn trong Nik ya đã lý giải sự chứng quả giác ngộ của Đức Phật cũng như nội dung của chứng ngộ.8

Có hai vấn đề được đưa ra: Thứ nhất, giác ngộ được mô tả một cách bình dị chính nhờ vào công phu thiền định đã mang lại ánh sáng chân lý sau thời gian dài chịu thử thách và lạc lối. Thứ hai là cách trình bày sinh động về cuộc ác chiến quyết liệt giữa Bồ-tát với Ma vương, cuối cùng Bồ-tát đã chiến thắng Ma vương và chứng quả Chánh Đẳng Giác.9

Hai cách diễn đạt này cho thấy rõ: cách thứ nhất diễn đạt là lúc ban đầu và cách diễn đạt thứ hai là thần thoại hoá sau này, có lẽ cách diễn đạt sau này để cố gắng trình bày tượng trưng cuộc chiến đấu nội tâm của Bồ-tát ngay trước giờ phút thành Chánh Giác.

Những cứ liệu văn bản sớm nhất cho rằng thái tử Sĩ-đạt-ta (Siddhattha Gotama) thoát ly đời sống gia đình với mục đích duy nhất là chấm dứt hiện hữu luân hồi vốn chứa đầy đau khổ.10Trải qua thời gian khá dài trong thử thách và đi sai đường, cuối cùng Ngài liễu tri trọn vẹn nguyên nhân của tất cả đau khổ trong đời và thấy rõ con đường đưa đến chấm dứt mọi đau khổ ấy. Chính sự nhận thức thấu đáo này được gọi là giác ngộ.11

Từ các cứ liệu kinh điển nguyên thuỷ, chúng ta hoàn toàn thấy rõ Đức Phật đạt đến đỉnh cao nhất của trí tuệ chính là do đoạn trừ mọi lậu hoặc ( savakkhaya-–  ?a).12Hai loại tuệ giác khác đó là tuệ giác biết được nhiều kiếp trước của mình và chúng sanh (P li, pubbeniv s nussati-–  ?a; Hán-việt dịch làtúc mạng minh) và tuệ giác biết được hiện tượng sanh và diệt của chúng sanh (P li, dibbacakkhu-–  ?a; Hán-việt dịch là thiên nhãn minh) là những bước chứng ngộ đầu tiên. Trong nhiều kinh điển, giây phút chứng ngộ này được minh hoạ như đoạn văn dưới đây: " Với tâm định tĩnh ta hướng tâm đến trí tuệ đoạn trừ mọi lậu hoặc ( sav naị khaya–  ? ya cittaị abhinin mesiị ).Ta nhận chân: đây là khổ (dukkha), đây là nguyên nhân của khổ, đây là sự đoạn diệt khổ, đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt khổ. Ta nhận chân: Đây là lậu hoặc..., đây là tiến trình đưa đến sự đoạn diệt các lậu hoặc. Biết như vậy, thấy như vậy, tâm ta thoát khỏi mọi lậu hoặc của dục ái (k masava), hữu ái (bhav sava) và vô minh ái (avijj sava). Khi tâm được giải thoát, ta biết rằng ta được giải thoát, và nhận thức: sanh đã tận (kh? ? j ti), phạm hạnh đã thành (vusitaị bramacariyam), việc nên làm đã làm (kataị kara? ? yaị ), không còn trở lại đời sống nầy nữa"(n paraị itthatt ya).13Sau khi tâm giải thoát khỏi vô minh, nguồn gốc của tất cả khổ và tái sanh, tuệ giác đoạn trừ các lậu hoặc trở nên viên mãn. Kể từ khi Bồ-tát Gotama chứng quả Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài được tôn xưng danh hiệu là Bậc Giác Ngộ, Đức Phật.

Kinh điển Nguyên Thủy không quan niệm rằng thuật ngữ bồ-đề (bodhi) chỉ dành riêng cho Đức Phật. Tất cả những vị đã vượt ra ngoài cơn lốc xoáy của sanh tử, đạt được lậu tận trí ( savakkhaya-–  ?a) đều được gọi là Bậc Giác Ngộ và cũng còn chỉ cho những vị đã đoạn trừ được các lậu hoặc (kh? ? sava)hay còn gọi là những vị A-la-hán. Đức Phật đạt đến cực điểm của tiến bộ tâm linh ngang qua chứng ngộ quả vị A-la-hán. Ngài là vị A-la-hán đầu tiên và cũng được xem như những vị A-la-hán khác.14Chứng quả giác ngộ trước những vị khác, Ngài đi tìm lại con đường mà nó đã mất dấu quá lâu trên cõi đời.15Vì vậy, Ngài là vị tiên phong đã thành công trên bước đường tìm cầu mục đích giải thoát, trong khi đó những vị A-la-hán khác hành theo pháp của Ngài, do đó những vị ấy cũng được gọi là những Bậc Giác Ngộ sau sự giác ngộ của đức Phật (buddh nubuddh ).16

Từ thời xa xưa đã có những nỗ lực phân biệt sự giác ngộ của Đức Phật khác với sự giác ngộ của chúng đệ tử của Ngài. Có lẽ vì mục tiêu này mà sự giác ngộ của Đức Phật đã được xem là sự giác ngộ viên mãn nhất (anuttara-samm -sambodhi). Cùng với việc mở rộng khái niệm "Đức Phật," nội dung giác ngộ của Đức Phật cũng trải qua nhiều thay đổi. Vì vậy người ta cho rằng mặc dù Đức Phật và chư vị A-la-hán đều chứng đạt tam minh (tisso vij ) nhưng tam minh của Đức Phật vẫn khác với chư vị A-la-hán. Tuệ giác của Đức Phật được cho là do thành tựu từ nhiều phương diện. Ngài đã đạt được lục thông (cha?abhi– –  ), thập lực (dasabala), tứ vô sở uý (catu-ves rajja), v.v... . Ngài đã thuần thục các pháp đưa đến giác ngộ (bodhi-pakkhik -dhamm ). Sau càng về sau Ngài được tôn là Đấng Toàn Trí (sabba– – u). Tất cả những đặc điểm biểu trưng này được xem như phần nào về sự giác ngộ của Đức Phật.17

Chính vì nội dung của giác ngộ thay đổi làm cho quan niệm về con đường đưa đến giác ngộ dường như cũng có một vài biến đổi. Các cứ liệu kinh điển Nguyên Thủy mô tả về sự chứng ngộ quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Đức Phật, sau khi từ bỏ hai cực đoan là tham đắm ngũ dục lạc (k masukhallik nuyoga) và khổ hạnh ép xác (attakilamth nuyoga), Ngài đi theo con đường trung đạo (majjhim paỉ ipad ), tu tập giới (s? la), định (sam dhi) và tuệ (pa– –  );chính con đường Trung đạo này đã đưa Ngài đến giác ngộ. Cũng có một số cứ liệu kinh điển trình bày nhiều phương tiện chứng đạt giác ngộ theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn trong Samyutta Nik ya,18có đoạn viết: chính do sự tu tập đạt được bốn thần thông (iddhi-p da), Đức Như Lai được tôn xưng là một vị A-la-hán, một vị giác ngộ?viên mãn. Ở một đoạn khác trong kinh Tương ưng, tu tập bảy pháp giác ngộ được xem là nhân, là duyên đưa đến quả Giác Ngộ.19Những bản kinh sớm hơn không đề cập lại các pháp tu tập căn bản hướng đến Giác ngộ (bodhi-pakkhik -dhamm ). Về sau, số lượng các pháp tu tập then chốt này được tăng lên ba mươi bảy hoặc bốn mươi ba. Cho đến sau này, cùng với đà phát triển của trường phái Đại thừa, lục ba-la-mật (p ramita) và thập địa (Bh‰ mi) cũng được xem là những nhân tố thiết yếu đưa đến quả giác ngộ.20

Chứng đạt giác ngộ cũng đồng với chứng đạt Niết-bàn. Đây là mục đích mà tất cả những vị đoạn trừ hết thảy mọi lậu hoặc ( sava) dù là Chư Phật, chư Phật Độc Giác, hay các bậc giác ngộ sau giác ngộ của Đức Phật. Phật giáo Nguyên Thủy (Therav da) không buộc chúng ta trở thành Phật để chứng đạt Niết bàn nhưng chủ yếu chủ trương đoạn trừ các lậu hoặc để đạt Niết-bàn. Phật giáo Nguyên Thủy cho rằng có ba bậc giác ngộ: Chư Phật, Độc Giác Phật, các vị giác ngộ sau Đức Phật hay còn là chư vị A-la-hán. Nhưng lý tưởng này không được xem như như ba lý tưởng khác nhau mà những vị theo Thượng Toạ Bộ theo đuổi như là sự lựa chọn của mình. Tuy nhiên, sau này cùng với trào lưu phát triển của Phật giáo Đại Thừa và khái niệm Bồ-tát, các quả vị này được tuyên bố dứt khoát là ba giai đoạn tu tập tâm linh khác nhau đưa đến ba bậc giác ngộ khác nhau là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (anutara-samyaksambodhi), Duyên Giác (pratyekabuddha-bodhi), và Thanh Văn Giác (? r vaka-y na) để đối lại với ba quả vị giác ngộ này, Tam thừa đã được thành lập, đó là Bồ-tát thừa (bodhi-satva-y na),21Duyên Giác thừa (pratyekabuddha-y na) và Thanh Văn thừa (? r vaka-y na). Hai thừa sau được xem như thấp hơn nhiều so với Bồ-tát thừa.

Khi Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại Thừa truyền bá rộng rãi đến nhiều nước khác, các quan điểm và giáo lý đã bị thay đổi nhiều để phù hợp với niềm tin và quan niệm riêng biệt của mỗi nước. Kết quả là nội dung và bản chất của giác ngộ cũng thay đổi ở mức độ nào đó. Các trường phái Phật giáo ở Trung Quốc và Nhật Bản đã trình bày thêm nhiều quan niệm khác liên quan đến bản chất giác ngộ và con đường đạt đến giác ngộ. Ví dụ, một mặt, Phật giáo Thiền dạy rằng giác ngộ đạt được nhờ sự tuệ tri về bản chất của hành giả (kiến tánh thành Phật). Mặt khác Phật giáo Tịnh Độ cho rằng đạt được giác ngộ thông qua sự tế độ của Đức Phật A-di-đà. Phật giáo Thiên Thai kể ra năm mươi hai giai đoạn hành giả phải vượt qua trước khi đạt giác ngộ viên mãn. Một số trường phái cho rằng chứng đạt giác ngộ phải tu tập từng bước (tiệm ngộ), trong khi đó một số trường phái khác lại cho rằng chứng đạt giác ngộ là sự trực ngộ nhanh chóng (đốn ngộ). Chính sự khác nhau này đưa đến việc hình thành hai trường phái thiền Phật giáo riêng biệt.

***

[Dịch từ nguyên tác tiếng Anh "Bodhi" trong Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo (Encyclopaedia of Buddhism), tập III, do giáo sư G.P. Malalasekera làm tổng biên tập. Ceylon: The Government Press, 1971, trang 178-180]

Chú thích:

1.Bodhin- manas: Rg – veda, v. 75. 1. viii, 82, 18.

2.Trong ngữ cảnh này ‘trí tuệ’ có nghĩa là thấy rõ được bản chất thật của các pháp (yath bh‰ ta–  ?a).

3.Xem thêm các thuật ngữ pacceka – bodhi(J. III, tr. 348; trong SnA. tr. 73 dùng để phân biệt với thuật ngữ samm - sambodhi) và pacceka – bodhi - –  ?a (J. IV, tr. 114). Điều đáng lưu ý là thuật ngữ s vaka – bodhikhông thấy xuất hiện trong kinh điển P li và văn học sớ giải mặc dù thuật ngữ Sanskrit tương đương là ? ravaka – bodhiđược dùng phổ thông trong các bản văn Sanskrit Phật giáo. Ghi chú trong DA.I, tr. 100 có liệt kê ba cấp độ trí tuệ: Trí tuệ Thanh văn (s vaka-p ram? -–  ?a), Trí tuệ Độc Giác Phật (pacceka-buddha-–  ?a), Trí tuệ của Phật (sabba– – uta-–  ?a). Đôi khi, thuật ngữ bodhicũng được dùng để chỉ cho trí tuệ cao tột của người tu khổ hạnh (ví dụ như trong J. V, tr. 229-230).

4.Rhys Davids cho rằng thuật ngữ này tuyệt nhiên không có nghĩa là trí tuệ của Đức Phật mà nó luôn luôn chỉ cho tuệ quán ở trạng thái cao hơn bậc Arahant (Dialogues, I, tr. 190 vctkt). Tuy nhiên, quan điểm của ông không chấp nhận cách giải thích các dữ kiện liên quan đến nguyên bản (xem thêmS. I, tr. 181; M. I, tr. 17, 163; Sn. kệ. 693, 696).

5.Saị yutta Nik ya(Tương Ưng Bộ Kinh), tập V, tr. 423.

6.Bodh? ti maggo (con đường giác ngộ): M.A. I, tr.54; VinA. I. tr. 139.

7.Xem thêm I. B. Horner, Early Buddhist Theory of Man Perfect, London, 1936, tr. 34 vctkt. VàVbhA. tr. 310.

8.Có nhiều đoạn trong kinh mô tả các vị đệ tử của Đức Phật chứng quả Giác ngộ. Trong Thera andTheri - g th (Trưởng Lão Tăng Kệ và Trưởng Lão Ni Kệ)cũng có rất nhiều đoạn mô tả như vậy.

9.M. I., tr.160-161., 240-241; Sn. Kệ 425- 49; xem thêm Lal. tr. 218 vctkt., Mhvu. II, tr. 238).

10.dukkha:M. I, tr. 163; A. I, tr. 145; S. II, tr. 104; III, tr. 65.

11.M. I, tr. 167.

12.Trong kinh Ariyapariyesana (M.I, tr. 163) không sử dụng thuật ngữ đặc biệt này, tuy nhiên ý tưởng đã diễn đạt ý nghĩa quan trọng của nó.

13.M.I. tr.23, 249.

14.Vin. I, tr. 14

15.S. II, tr. 105; V, tr. 160-161; M. III, tr.8.

16.Liên quan đến sự khác nhau giữa Đức Phật và các vị A-la-hán.

17.Xem ERE. II, tr. 740.

18.M.V, tr. 127-128.

19.S. V, tr. 127-128.

20.Liên quan đến lời giải thích Bodhi của Mật Tông.

21.Những quan niệm này về sau được trường phái Nguyên thủy Phật giáo (Therav da Buddhism) công nhận. Dường như nó được giới thiệu vào Phật giáo Tích lan trong thời kỳ Polonnaruwa, trong suốt thời gian đó, đông đảo Phật tử của Đại thừa Phật giáo cũng đã tìm ra hướng đi cho chính họ.

--- o0o ---




--- o0o ---

Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/01/2018(Xem: 7311)
Ý Nghĩa Danh Hiệu Của Chư Phật- Lê Tự Hỷ
09/01/2018(Xem: 3388)
Ở những ngày tháng cuối năm Quí Tỵ, trước và sau lễ Noel, không khí Miền Nam năm nay đã khá lạnh hơn những năm trước đây, riêng ở những vùng Cao nguyên Trung phần, nhứt là những tỉnh miền cao, vùng tuyến đầu đất nước, thậm chí có nơi tuyết đổ lên đến 2, 3 tấc!
15/12/2017(Xem: 120947)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
28/05/2017(Xem: 9226)
Giáo lý đạo Phật là gì? Giáo lý đạo Phật là phương tiện để điều trị thân bệnh và tâm bệnh, là dược liệu của sự chân thật giúp cho người bệnh hiểu rõ bản chất của sự thật, của chân tâm để đạt đến sự giác ngộ rốt ráo. Chúng sinh do tâm bệnh nên có thân bệnh phát tác và mãi trong chuỗi dài sinh tử luân hồi, con người phải trải qua bốn giai đoạn là sinh, già, bệnh, chết; là quy luật tất yếu của thế giới sinh – diệt, chúng sinh nào muốn liễu sinh thoát tử, phải điều trị bệnh bằng các bài thuốc mà đức Phật đã chỉ dạy.
22/05/2017(Xem: 49670)
Trong bước đầu học Phật, chúng tôi thường gặp nhiều trở ngại lớn về vấn đề danh từ. Vì trong kinh sách tiếng Việt thường dùng lẫn lộn các chữ Việt, chữ Hán Việt, chữ Pali, chữ Sanscrit, khi thì phiên âm, khi thì dịch nghĩa. Các nhân danh và địa danh không được đồng nhứt. Về thời gian, nơi chốn và nhiều câu chuyện trong sự tích đức Phật cũng có nhiều thuyết khác nhau làm cho người học Phật khó ghi nhận được diễn tiến cuộc đời đức Phật. Do đó chúng tôi có phát nguyện sẽ cố gắng đóng góp phần nào để giúp người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần.
13/02/2017(Xem: 5169)
Này Ananda, nếu có Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư sĩ nam hay cư sĩ nữ nào thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp, hành trì đúng Chánh pháp, thời người ấy kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường Như Lai với sự cúng dường tối thượng. (Đại Bát Niết Bàn – Trường Bộ Kinh)
05/01/2017(Xem: 9598)
Sao Mai từ góc trời lên Tử sinh đã dứt não phiền đã tan Mười phương thế giới hân hoan Mừng đấng Chánh Giác với ngàn lời ca. Mừng ngày Đức Phật thành đạo (8-12 âm lịch). Đây là hình ảnh rất thiêng liêng và cao quý đối với người Phật tử, vì đây là lúc thái tử Siddhartta Gautama đã tìm ra được đạo lớn sau 49 ngày thiền định miên mật dưới gốc cây Bồ Đề, và nhờ đó Phật giáo đã có mặt và tồn tại suốt 2600 năm qua, mang lại lợi ích cho vô lượng vô số chúng sinh.
01/10/2016(Xem: 7610)
Vào khoảng năm 1978, chùa chúng tôi xảy ra một biến cố làm cho tất cả mọi người có thêm kinh nghiệm về việc tái sinh và nghiệp báo. Nếu biến cố này xảy ra trước 1975 thì chắc những tờ nhật báo tha hồ khai thác để làm tiền thiên hạ, và chùa chúng tôi sẽ bị ảnh hưởng không ít vì cảnh “dập dìu tài tử giai nhân” đua nhau tới chùa tìm hiểu sự vụ, hòng kiểm chứng những lời tường thuật của báo chí. Nhưng nhờ sự cố đã xảy ra vào một thời rất căng cho các chùa chiền, thêm nữa chùa chúng tôi ở nơi thật hẻo lánh trên núi thì ai biết được sự cố hy hữu đã xảy đến.
27/12/2015(Xem: 8951)
Lễ Vía Đức Phật A Di Đà 2015 tại TV Minh Quang Sydney, Úc Châu, Chủ Nhật 26-12-2015
02/06/2015(Xem: 12909)
Trước khi ôn lại Tiểu Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, để người đọc nhận định dễ hơn về ngày tháng ghi trong tiểu sử của Ngài, chúng tôi xin nhắc lại là Đức Phật Thích Ca sanh vào năm 624 trước Tây Lịch. Ngài nhập Niết Bàn lúc 80 tuổi vào năm 544 trước Tây Lịch. Sáu trăm hai mươi bốn năm sau, Tây Phương mới bắt đầu chọn năm sinh của Đức Chúa Jesus Christ làm khởi điểm cho Dương lịch. Như vậy tính đến nay là năm 2015 thì Đức Phật đã ra đời được 2,639 năm và chiếu theo Phật lịch khởi đầu từ năm Đức Phật viên tịch (năm 544 trước TL) thì Ngài đã nhập Niết Bàn được 2,559 năm. Việt Nam và các quốc gia thuộc khu vực Đông Á như Nhật Bản, Trung Hoa, Triều Tiên ... từ xưa đều làm Lễ Phật Đản vào ngày mồng 8 tháng Tư Âm Lịch. Tên gọi tắt dành cho ngày Lễ Phật Đản là "Ngày mồng Tám tháng Tư" đã lưu truyền hằng bao thế kỷ, trở thành phong tục tập quán cổ truyền, ghi đậm vào tâm khảm của mọi người kể cả người theo hay không theo Phật giáo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567