Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Khái niệm giác ngộ trong đạo Phật - Thích Nữ Liên Hòa dịch

16/05/201313:35(Xem: 2520)
6. Khái niệm giác ngộ trong đạo Phật - Thích Nữ Liên Hòa dịch


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần I

Bản chất và con đường Giác Ngộ

--- o0o ---

KHÁI NIỆM GIÁC NGỘ TRONG ĐẠO PHẬT

S. K. Nanayakkara
Thích Nữ Liên Hòa dịch

Đức Phật là vị tiên phong đã thành công trên bước đường tìm cầu mục đích giải thoát, trong khi đó những vị A-la-hán khác hành theo pháp của Ngài, do vậy những vị ấy cũng được gọi là những Bậc Giác Ngộ sau sự giác ngộ của đức Phật (buddh nubuddh).

Thuật ngữ "Bodhi" bắt nguồn từ ngữ căn "budh" (thức tĩnh)1hàm nghĩa là trí tuệ (–  ?a), giác ngộ hay trí tuệ mà Đấng Giác Ngộ, (Đức Phật) đạt được.2Thông thường, Bồ-đề bao gồm bảy pháp tu tập đưa đến Giác ngộ (P li, Bojhaơ ga; Skt. Bodhyaơ ga, Thất Giác chi) và sự chứng đắc giác ngộ thông qua các nguyên lý dẫn đến sự chín muồi của tỉnh thức. (P li, bodhipakkhik -dhamm hoặc bodhi-p can -dhamm ; Skt. bodhi-pak?y -dharma). Bên cạnh đó, trong ý nghĩa đặc biệt của giác ngộ, thuật ngữ "Bồ-đề" (Bodhi) còn được dùng để nói đến sự giác ngộ của chư Độc Giác Phật.3Đôi khi, thuật ngữ sambodhi(sự giác ngộ viên mãn)cũng được dùng diễn đạt sự giác ngộ của Đức Phật, chư Độc Giác Phật, và các vị A-la-hán. 4Tuy nhiên, trong trường hợp để phân biệt sự giác ngộ của chư Phật Độc Giác và các vị A-la-hán, thuật ngữ abhisambodhi (Vô thượng đẳng giác) và samma-sambodhi (chánh đẳng giác) được dành chỉ riêng cho giác ngộ của Đức Phật.

Tam tạng Nik ya cũng như văn học sớ giải đã nỗ lực giải thích ý nghĩa chuẩn xác thuật ngữ bồ-đề (bodhi). Vì thế, theo Saị yutta-Nik ya,5bồ-đềchính là đạt được trí tuệ về Bốn Điều Chân Thật Vi Diệu (Tứ Thánh Đế). Mặt khác, giác ngộ là con đường6(có nghĩa là Tám Con Đường Chân Chánh). Giác ngộ được giải thích như là sự thấu suốt bốn điều chân thật cao quý, đó là Bốn Điều Chân Thật Vi Diệu.7

Chứng đạt giác ngộ là thể nghiệm cá nhân và vì vậy chỉ có người đạt ngộ mới thấu triệt bản chất và ý nghĩa của giác ngộ. Lại nữa, nhiều đoạn trong Nik ya đã lý giải sự chứng quả giác ngộ của Đức Phật cũng như nội dung của chứng ngộ.8

Có hai vấn đề được đưa ra: Thứ nhất, giác ngộ được mô tả một cách bình dị chính nhờ vào công phu thiền định đã mang lại ánh sáng chân lý sau thời gian dài chịu thử thách và lạc lối. Thứ hai là cách trình bày sinh động về cuộc ác chiến quyết liệt giữa Bồ-tát với Ma vương, cuối cùng Bồ-tát đã chiến thắng Ma vương và chứng quả Chánh Đẳng Giác.9

Hai cách diễn đạt này cho thấy rõ: cách thứ nhất diễn đạt là lúc ban đầu và cách diễn đạt thứ hai là thần thoại hoá sau này, có lẽ cách diễn đạt sau này để cố gắng trình bày tượng trưng cuộc chiến đấu nội tâm của Bồ-tát ngay trước giờ phút thành Chánh Giác.

Những cứ liệu văn bản sớm nhất cho rằng thái tử Sĩ-đạt-ta (Siddhattha Gotama) thoát ly đời sống gia đình với mục đích duy nhất là chấm dứt hiện hữu luân hồi vốn chứa đầy đau khổ.10Trải qua thời gian khá dài trong thử thách và đi sai đường, cuối cùng Ngài liễu tri trọn vẹn nguyên nhân của tất cả đau khổ trong đời và thấy rõ con đường đưa đến chấm dứt mọi đau khổ ấy. Chính sự nhận thức thấu đáo này được gọi là giác ngộ.11

Từ các cứ liệu kinh điển nguyên thuỷ, chúng ta hoàn toàn thấy rõ Đức Phật đạt đến đỉnh cao nhất của trí tuệ chính là do đoạn trừ mọi lậu hoặc ( savakkhaya-–  ?a).12Hai loại tuệ giác khác đó là tuệ giác biết được nhiều kiếp trước của mình và chúng sanh (P li, pubbeniv s nussati-–  ?a; Hán-việt dịch làtúc mạng minh) và tuệ giác biết được hiện tượng sanh và diệt của chúng sanh (P li, dibbacakkhu-–  ?a; Hán-việt dịch là thiên nhãn minh) là những bước chứng ngộ đầu tiên. Trong nhiều kinh điển, giây phút chứng ngộ này được minh hoạ như đoạn văn dưới đây: " Với tâm định tĩnh ta hướng tâm đến trí tuệ đoạn trừ mọi lậu hoặc ( sav naị khaya–  ? ya cittaị abhinin mesiị ).Ta nhận chân: đây là khổ (dukkha), đây là nguyên nhân của khổ, đây là sự đoạn diệt khổ, đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt khổ. Ta nhận chân: Đây là lậu hoặc..., đây là tiến trình đưa đến sự đoạn diệt các lậu hoặc. Biết như vậy, thấy như vậy, tâm ta thoát khỏi mọi lậu hoặc của dục ái (k masava), hữu ái (bhav sava) và vô minh ái (avijj sava). Khi tâm được giải thoát, ta biết rằng ta được giải thoát, và nhận thức: sanh đã tận (kh? ? j ti), phạm hạnh đã thành (vusitaị bramacariyam), việc nên làm đã làm (kataị kara? ? yaị ), không còn trở lại đời sống nầy nữa"(n paraị itthatt ya).13Sau khi tâm giải thoát khỏi vô minh, nguồn gốc của tất cả khổ và tái sanh, tuệ giác đoạn trừ các lậu hoặc trở nên viên mãn. Kể từ khi Bồ-tát Gotama chứng quả Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài được tôn xưng danh hiệu là Bậc Giác Ngộ, Đức Phật.

Kinh điển Nguyên Thủy không quan niệm rằng thuật ngữ bồ-đề (bodhi) chỉ dành riêng cho Đức Phật. Tất cả những vị đã vượt ra ngoài cơn lốc xoáy của sanh tử, đạt được lậu tận trí ( savakkhaya-–  ?a) đều được gọi là Bậc Giác Ngộ và cũng còn chỉ cho những vị đã đoạn trừ được các lậu hoặc (kh? ? sava)hay còn gọi là những vị A-la-hán. Đức Phật đạt đến cực điểm của tiến bộ tâm linh ngang qua chứng ngộ quả vị A-la-hán. Ngài là vị A-la-hán đầu tiên và cũng được xem như những vị A-la-hán khác.14Chứng quả giác ngộ trước những vị khác, Ngài đi tìm lại con đường mà nó đã mất dấu quá lâu trên cõi đời.15Vì vậy, Ngài là vị tiên phong đã thành công trên bước đường tìm cầu mục đích giải thoát, trong khi đó những vị A-la-hán khác hành theo pháp của Ngài, do đó những vị ấy cũng được gọi là những Bậc Giác Ngộ sau sự giác ngộ của đức Phật (buddh nubuddh ).16

Từ thời xa xưa đã có những nỗ lực phân biệt sự giác ngộ của Đức Phật khác với sự giác ngộ của chúng đệ tử của Ngài. Có lẽ vì mục tiêu này mà sự giác ngộ của Đức Phật đã được xem là sự giác ngộ viên mãn nhất (anuttara-samm -sambodhi). Cùng với việc mở rộng khái niệm "Đức Phật," nội dung giác ngộ của Đức Phật cũng trải qua nhiều thay đổi. Vì vậy người ta cho rằng mặc dù Đức Phật và chư vị A-la-hán đều chứng đạt tam minh (tisso vij ) nhưng tam minh của Đức Phật vẫn khác với chư vị A-la-hán. Tuệ giác của Đức Phật được cho là do thành tựu từ nhiều phương diện. Ngài đã đạt được lục thông (cha?abhi– –  ), thập lực (dasabala), tứ vô sở uý (catu-ves rajja), v.v... . Ngài đã thuần thục các pháp đưa đến giác ngộ (bodhi-pakkhik -dhamm ). Sau càng về sau Ngài được tôn là Đấng Toàn Trí (sabba– – u). Tất cả những đặc điểm biểu trưng này được xem như phần nào về sự giác ngộ của Đức Phật.17

Chính vì nội dung của giác ngộ thay đổi làm cho quan niệm về con đường đưa đến giác ngộ dường như cũng có một vài biến đổi. Các cứ liệu kinh điển Nguyên Thủy mô tả về sự chứng ngộ quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Đức Phật, sau khi từ bỏ hai cực đoan là tham đắm ngũ dục lạc (k masukhallik nuyoga) và khổ hạnh ép xác (attakilamth nuyoga), Ngài đi theo con đường trung đạo (majjhim paỉ ipad ), tu tập giới (s? la), định (sam dhi) và tuệ (pa– –  );chính con đường Trung đạo này đã đưa Ngài đến giác ngộ. Cũng có một số cứ liệu kinh điển trình bày nhiều phương tiện chứng đạt giác ngộ theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn trong Samyutta Nik ya,18có đoạn viết: chính do sự tu tập đạt được bốn thần thông (iddhi-p da), Đức Như Lai được tôn xưng là một vị A-la-hán, một vị giác ngộ?viên mãn. Ở một đoạn khác trong kinh Tương ưng, tu tập bảy pháp giác ngộ được xem là nhân, là duyên đưa đến quả Giác Ngộ.19Những bản kinh sớm hơn không đề cập lại các pháp tu tập căn bản hướng đến Giác ngộ (bodhi-pakkhik -dhamm ). Về sau, số lượng các pháp tu tập then chốt này được tăng lên ba mươi bảy hoặc bốn mươi ba. Cho đến sau này, cùng với đà phát triển của trường phái Đại thừa, lục ba-la-mật (p ramita) và thập địa (Bh‰ mi) cũng được xem là những nhân tố thiết yếu đưa đến quả giác ngộ.20

Chứng đạt giác ngộ cũng đồng với chứng đạt Niết-bàn. Đây là mục đích mà tất cả những vị đoạn trừ hết thảy mọi lậu hoặc ( sava) dù là Chư Phật, chư Phật Độc Giác, hay các bậc giác ngộ sau giác ngộ của Đức Phật. Phật giáo Nguyên Thủy (Therav da) không buộc chúng ta trở thành Phật để chứng đạt Niết bàn nhưng chủ yếu chủ trương đoạn trừ các lậu hoặc để đạt Niết-bàn. Phật giáo Nguyên Thủy cho rằng có ba bậc giác ngộ: Chư Phật, Độc Giác Phật, các vị giác ngộ sau Đức Phật hay còn là chư vị A-la-hán. Nhưng lý tưởng này không được xem như như ba lý tưởng khác nhau mà những vị theo Thượng Toạ Bộ theo đuổi như là sự lựa chọn của mình. Tuy nhiên, sau này cùng với trào lưu phát triển của Phật giáo Đại Thừa và khái niệm Bồ-tát, các quả vị này được tuyên bố dứt khoát là ba giai đoạn tu tập tâm linh khác nhau đưa đến ba bậc giác ngộ khác nhau là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (anutara-samyaksambodhi), Duyên Giác (pratyekabuddha-bodhi), và Thanh Văn Giác (? r vaka-y na) để đối lại với ba quả vị giác ngộ này, Tam thừa đã được thành lập, đó là Bồ-tát thừa (bodhi-satva-y na),21Duyên Giác thừa (pratyekabuddha-y na) và Thanh Văn thừa (? r vaka-y na). Hai thừa sau được xem như thấp hơn nhiều so với Bồ-tát thừa.

Khi Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại Thừa truyền bá rộng rãi đến nhiều nước khác, các quan điểm và giáo lý đã bị thay đổi nhiều để phù hợp với niềm tin và quan niệm riêng biệt của mỗi nước. Kết quả là nội dung và bản chất của giác ngộ cũng thay đổi ở mức độ nào đó. Các trường phái Phật giáo ở Trung Quốc và Nhật Bản đã trình bày thêm nhiều quan niệm khác liên quan đến bản chất giác ngộ và con đường đạt đến giác ngộ. Ví dụ, một mặt, Phật giáo Thiền dạy rằng giác ngộ đạt được nhờ sự tuệ tri về bản chất của hành giả (kiến tánh thành Phật). Mặt khác Phật giáo Tịnh Độ cho rằng đạt được giác ngộ thông qua sự tế độ của Đức Phật A-di-đà. Phật giáo Thiên Thai kể ra năm mươi hai giai đoạn hành giả phải vượt qua trước khi đạt giác ngộ viên mãn. Một số trường phái cho rằng chứng đạt giác ngộ phải tu tập từng bước (tiệm ngộ), trong khi đó một số trường phái khác lại cho rằng chứng đạt giác ngộ là sự trực ngộ nhanh chóng (đốn ngộ). Chính sự khác nhau này đưa đến việc hình thành hai trường phái thiền Phật giáo riêng biệt.

***

[Dịch từ nguyên tác tiếng Anh "Bodhi" trong Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo (Encyclopaedia of Buddhism), tập III, do giáo sư G.P. Malalasekera làm tổng biên tập. Ceylon: The Government Press, 1971, trang 178-180]

Chú thích:

1.Bodhin- manas: Rg – veda, v. 75. 1. viii, 82, 18.

2.Trong ngữ cảnh này ‘trí tuệ’ có nghĩa là thấy rõ được bản chất thật của các pháp (yath bh‰ ta–  ?a).

3.Xem thêm các thuật ngữ pacceka – bodhi(J. III, tr. 348; trong SnA. tr. 73 dùng để phân biệt với thuật ngữ samm - sambodhi) và pacceka – bodhi - –  ?a (J. IV, tr. 114). Điều đáng lưu ý là thuật ngữ s vaka – bodhikhông thấy xuất hiện trong kinh điển P li và văn học sớ giải mặc dù thuật ngữ Sanskrit tương đương là ? ravaka – bodhiđược dùng phổ thông trong các bản văn Sanskrit Phật giáo. Ghi chú trong DA.I, tr. 100 có liệt kê ba cấp độ trí tuệ: Trí tuệ Thanh văn (s vaka-p ram? -–  ?a), Trí tuệ Độc Giác Phật (pacceka-buddha-–  ?a), Trí tuệ của Phật (sabba– – uta-–  ?a). Đôi khi, thuật ngữ bodhicũng được dùng để chỉ cho trí tuệ cao tột của người tu khổ hạnh (ví dụ như trong J. V, tr. 229-230).

4.Rhys Davids cho rằng thuật ngữ này tuyệt nhiên không có nghĩa là trí tuệ của Đức Phật mà nó luôn luôn chỉ cho tuệ quán ở trạng thái cao hơn bậc Arahant (Dialogues, I, tr. 190 vctkt). Tuy nhiên, quan điểm của ông không chấp nhận cách giải thích các dữ kiện liên quan đến nguyên bản (xem thêmS. I, tr. 181; M. I, tr. 17, 163; Sn. kệ. 693, 696).

5.Saị yutta Nik ya(Tương Ưng Bộ Kinh), tập V, tr. 423.

6.Bodh? ti maggo (con đường giác ngộ): M.A. I, tr.54; VinA. I. tr. 139.

7.Xem thêm I. B. Horner, Early Buddhist Theory of Man Perfect, London, 1936, tr. 34 vctkt. VàVbhA. tr. 310.

8.Có nhiều đoạn trong kinh mô tả các vị đệ tử của Đức Phật chứng quả Giác ngộ. Trong Thera andTheri - g th (Trưởng Lão Tăng Kệ và Trưởng Lão Ni Kệ)cũng có rất nhiều đoạn mô tả như vậy.

9.M. I., tr.160-161., 240-241; Sn. Kệ 425- 49; xem thêm Lal. tr. 218 vctkt., Mhvu. II, tr. 238).

10.dukkha:M. I, tr. 163; A. I, tr. 145; S. II, tr. 104; III, tr. 65.

11.M. I, tr. 167.

12.Trong kinh Ariyapariyesana (M.I, tr. 163) không sử dụng thuật ngữ đặc biệt này, tuy nhiên ý tưởng đã diễn đạt ý nghĩa quan trọng của nó.

13.M.I. tr.23, 249.

14.Vin. I, tr. 14

15.S. II, tr. 105; V, tr. 160-161; M. III, tr.8.

16.Liên quan đến sự khác nhau giữa Đức Phật và các vị A-la-hán.

17.Xem ERE. II, tr. 740.

18.M.V, tr. 127-128.

19.S. V, tr. 127-128.

20.Liên quan đến lời giải thích Bodhi của Mật Tông.

21.Những quan niệm này về sau được trường phái Nguyên thủy Phật giáo (Therav da Buddhism) công nhận. Dường như nó được giới thiệu vào Phật giáo Tích lan trong thời kỳ Polonnaruwa, trong suốt thời gian đó, đông đảo Phật tử của Đại thừa Phật giáo cũng đã tìm ra hướng đi cho chính họ.

--- o0o ---




--- o0o ---

Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/09/2019(Xem: 23111)
Video: Hành Trình Khám Phá về Sự Thật Xá Lợi của Đức Phật (Rất hay, rất cảm động khi xem, quý vị nên tranh thủ vào xem liền, chân thành cảm ơn nhà văn, nhà khảo cô người Anh Charles Allen đã thực hiện cuốn phim tài liệu công phu và độc nhất vô nhị để tôn vinh và tìm ra sự thật về xá lợi của Đức Thế Tôn sau 26 thế kỷ, from Thích Nguyên Tạng, chủ biên trang nhà Quảng Đức)
16/08/2019(Xem: 11251)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
02/05/2019(Xem: 10329)
Những Ngày Lễ Trong Phật Giáo (Tính theo ngày Âm lịch)
12/01/2019(Xem: 6421)
Cách đây hơn 2500 năm về trước, Đức Phật nhập định dưới cội cây bồ đề, rồi từ đó cả nhân loại bước sang một trang mới. Lòng từ bi của Người soi sáng cả pháp giới, ánh quang minh bao phủ muôn vạn loài, những khổ đau muôn kiếp theo vô minh vỡ tan. Nhờ có đêm thành đạo mà từ đây cả thế giới mênh mông được thắp sáng bằng niềm tin bất diệt, được sưởi ấm bởi tình thương yêu và
09/01/2019(Xem: 3452)
Thời điểm kỷ niệm đức Bổn Sư Thích Ca Thành Đạo năm nay cũng là thời điểm Pháp hội Ninh Mã (Nyingmapa) khai hội tu tập & cầu nguyện cho '' Thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc'' tại Bồ Đề Đạo Tràng. Nhân cơ duyên này (chúng con) chúng tôi đã được quí vị pháp hữu, thiện hữu phát tâm lành cúng dường gieo duyên cùng Pháp hội và chư Đại tăng trong thời gian 10 ngày pháp hội diễn ra.
24/07/2018(Xem: 4626)
Xưa rời cung điện ra đi Giờ đây thành đạo trở về thăm cha Hai mươi năm thoáng trôi qua Quê hương Đức Phật Thích Ca đón người Ca Tỳ La Vệ xanh tươi Vua cha Tịnh Phạn mừng vui vô cùng Cả nhân dân, lẫn hoàng cung Cùng nhau sửa soạn tưng bừng thiết tha. Một bình bát, một cà sa Dạt dào đức độ, bao la nhân từ Phật thăm quê dấu yêu xưa Rộn ràng đất nước sang mùa hoan ca
01/06/2018(Xem: 23987)
Nhằm tạo một cơ hội sinh hoạt chung để chia sẻ, học hỏi, thảo luận một số đề tài liên quan đến công việc Hoằng pháp, Giáo dục, Văn học Nghệ thuật Phật Giáo, và Ra Mắt Sách chung, một buổi sinh hoạt CÓ MẶT CHO NHAU sẽ được tổ chức tại Viet Bao Gallery, 14841 Moran St. Westminster, CA 92683, vào lúc 4:30--8:30 Chiều, Thứ Bảy, ngày 2 tháng 6, 2018.
21/01/2018(Xem: 7819)
Lung linh mùa Thành Đạo Ngân hà lấp lánh sao Niềm tin ngời trang sử Ánh đạo vàng dài lâu Muôn loài say đắm ngủ Bấy lâu đầy khổ đau Si mê lòng ngã chấp Vô minh khó lối về Vũ trụ ngàn tinh tú Lấp lánh ánh sao mai Đức Thế Tôn Thành Đạo Trời người vui hân hoan Con tìm về nẻo giác Chân lý đạo sáng ngời Con chúng sanh lưu lạc Kính lạy Đức Thế Tôn Tháng chạp ngày mùng tám Trái tim người con Phật Thở đều trong chánh định Vũ trụ hòa diệu tâm Ngát hương mùa thành đạo Con kính lễ đức Phật Bậc vô Thượng tuệ giác Đấng Điều Ngự Đạo Sư.
21/01/2018(Xem: 9963)
Sao Mai từ góc trời lên Tử Sinh đã dứt, não phiền đã tan. Mười phương thế giới hân hoan Mừng Đấng Chánh Giác với ngàn lời ca..
20/01/2018(Xem: 3422)
Hôm nay, trong không khí của mùa đông đang dần tan, mùa xuân đang tiếp bước khai hoa nỡ lộc, cũng là lúc trên khắp năm châu đón mừng ngày Đức Phật thành đạo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567