Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập 75 bài viết về ngày Phật Thành Đạo

08/04/201314:07(Xem: 4570)
Tuyển tập 75 bài viết về ngày Phật Thành Đạo


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o ---

duc-bonsuthichca-thanhdao

--- o0o ---

tdao-bia

--- o0o ---

Cáo lỗi cùng độc giả:Những ký hiệu lạ, những dấu hỏi , những ô vuông..... thỉnh thoảng độc giả bắt gặp trong phiên bản điện tử của tập sách này là biến dạng từ mẫu tự chữ Pàli và Sanskrit (hai cổ ngữ của Phật giáo). Computer của quý vị cần cài đặt loại phông chữ đặc biệt này mới đọc được.(Thích Nguyên Tạng, 01-04-2001)

--- o0o ---

LỜI NÓI ĐẦU[^]

Theo truyền thống của Phật giáo Đại thừa, đức Phật Thích-ca Mâu-ni chứng đạt đạo quả giác ngộ vô thượng vào ngày mùng 8 tháng chạp. Để cùng ôn lại kinh nghiệm giác ngộ và truyền bá chánh pháp của đức Phật, chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử ở các nước trở về Việt Nam Phật Quốc Tự, Bồ-đề Đạo Tràng làm lễ tưởng niệm và hội thảo về chủ đề "Bản Chất và Con Đường Giác Ngộ và các Vấn Đề Thời Đại." Tuyển tập này gồm có 63 bài viết và dịch về nhiều chủ đề khác nhau, được chia thành bốn phần chính, đó là, (i) bản chất và con đường giác ngộ, (ii) ý nghĩa Phật thành đạo và niên đại của ngài (iii) Phật giáo và các vấn đề thời đại, (iv) Bồ-đề Đạo Tràng: lịch sử và chiêm bái.

Mỗi bài viết phản ánh về cách tiếp cận khác nhau cũng như các giá trị thực tiễn của sự kiện Bồ-tát Tất-đạt-đa thành Phật. Các tác giả đều nhất trí với nhau về năm điểm chính sau đây.

Thứ nhất, sự giác ngộ của đức Phật là kết quả của một quá trình huấn luyện một cách toàn hảo về đời sống đạo đức, thực hành thiền định và phát huy trí tuệ. Ở đây, hoàn toàn không có yếu tố tha lực hay siêu nhiên hoá. Sự kiện đó cho thấy con đường giác ngộ mà đức Phật tự mình đã đi qua và truyền lại cho chúng sanh từ bao thế kỷ nay là con đường mà bất kỳ con người nào cũng có thể thực hiện được, bất luận vị trí xã hội, giới tính, tuổi tác, chủng tộc và màu da của người đó.

Thứ hai, sự giác ngộ của đức Phật được mô tả như là sự chiến thắng các đội ma quân "nội tâm" hơn là các ma quỷ bên ngoài. Bọn ma quân đó chính là các phiền não, lậu hoặc và các căn bản bất thiện. Chính nhờ sự vượt qua các quân ma nội tâm này mà Bồ-tát Tất-đạt-đa đã trở thành bậc giác ngộ viên mãn đầu tiên trong lịch sử nhân loại.

Thứ ba, với tư cách là người giác ngộ, người đầu tiên phát hiện và tuyên bố con đường, đức Phật chỉ là vị đạo sư thiện xảo về con đường. Là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã khám phá ra con đường giác ngộ, đức Phật thường được mô tả như là "bậc làm cho khởi dậy con đường trước đây chưa từng được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói; là bậc hiểu đạo, bậc khai đạo và bậc thiện xảo về đạo," hay là bậc vĩ nhân, là người kỳ diệu có một không hai trong lịch sử nhân loại: "người đã dựng đứng lại những gì đã bị ngả, lật ngữa lên những gì đã bị úp xuống, soi ánh sáng vào những chỗ tối tăm." Điều này hàm ý rằng đức Phật sẽ không thể ban tặng thành quả giác ngộ và giải thoát cho ai. Để giác ngộ như đức Phật, những người con Phật hôm nay và mai sau phải tự mình vững bước trên con đường giác ngộ mà đức Phật đã khai sáng. Mọi hành vi cầu khẩn, lạy lục, van xin ơn cứu rỗi của đức Phật không chỉ phản ánh thái độ yếu đuối của bản thân, mà nguy hiểm hơn còn góp phần làm cho con người hiểu sai lời dạy cao quý của đức Phật về nguyên lý nhân quả.

Thứ tư, các bài viết cũng còn gặp nhau ở một điểm nữa là tất cả đều vận dụng các giá trị thực tiễn từ kinh nghiệm thành đạt đạo quả giác ngộ vô thượng của đức Phật vào đời sống thường nhật, dưới nhiều góc độ khác nhau, cũng như sự ứng dụng giáo pháp vào các ngành học hiện đại như đạo đức học, tâm lý học, triết học, xã hội học, chính trị học, sinh thái học v.v. . . Có như vậy sự tưởng niệm sẽ trở nên thiết thực và đầy ý nghĩa của giải thoát.

Thứ năm, điểm gặp nhau khác của các bài viết là phần lớn các tác giả đều không nhìn đức Phật là người thị hiện của chư Phật trong quá khứ, như các nhà Phật học Trung Hoa đã từng quan niệm. Nói cách khác, theo các tác giả, cách tiếp cận và giải thích sự kiện đức Phật thành đạo từ một phàm phu do nỗ lực thiền định đúng cách, sẽ mang lại nhiều giá trị đạo đức, hơn là cách giải thích đức Phật đã thành đạo từ vô lượng kiếp về trước (Kinh Pháp Hoa) hay sự thành đạo của đức Phật ở hiện tại chỉ là một sự thị hiện để độ chúng sanh ở cõi Ta-bà này.

Sự thành đạo của đức Phật đã mở ra cánh cửa bất tử cho các chúng sanh phàm phu, đã xua tan màn vô minh đen tối và đã mang lại tuệ giác cho sự sống. Cuộc đời của đức Phật vô cùng vĩ đại. Tâm hành của đức Phật vượt khỏi logic và ngôn ngữ. Do đó, sự tìm hiểu và giải thích về đức Phật và đạo Phật cứ nghiễm nhiên diễn ra bất tận !

Tuyển tập này được thành tựu là nhờ vào công đức của nhiều Tăng Ni và Phật tử. Nhân dịp này, Ban Biên Tập chân thành tán thán và tri ân toàn thể quý vị đã phát tâm viết và dịch bài, để tưởng niệm ngày thành đạo của đức Phật. Đặc biệt tán thán và tri ân quý đại đức Thích Thanh Chương, Thích Lệ Thọ, Thích Huệ Khai, Thích Quang Thạnh, Thích Thiện Hữu, Thích Phước Chí, Thích Giác Hoàng, Thích Thiện Quý, Thích Thiện Huệ, Thích Thiện Thành, Thích Thiện Nghiêm, Thích Hạnh Chánh, Thích Tâm Đức, Thích Quảng Long, Thích Nhuận Thông; quý Sư cô Thích Nữ Giới Hương, Thích Nữ Huệ Liên, Thích Nữ Liên Hiếu, Thích Nữ Liên Hoà, Thích Nữ Đồng Anh, Thích Nữ Hương Nhũ, Thích Nữ Như Nguyệt, Thích Nữ Liên Dung v.v… đã cộng sự đắc lực trong ban tổ chức và hội thảo. Chân thành tán thán đại đức Thích Giác Hoàng đã phát tâm chuyển đổi hệ thống cước chú của các bài viết từ dạng MS Word sang dạng HTML để đưa vào đĩa CD và trang nhà Đạo Phật Ngày Nay, http://www.buddhismtoday.com/để nội dung của hội thảo được phổ biến rộng rãi hơn.

Thật là cảm động biết bao tấm lòng của quý Tăng Ni đang tu học tại Ấn Độ, mặc dù rất bận rộn với việc thi cử và nghiên cứu, cũng đã thể hiện tấm lòng vì đạo, cố gắng viết và dịch bài, trở về thánh tích Bồ-đề Đạo Tràng để tưởng niệm ngày đức Phật thành đạo và tham gia hội thảo. Kính nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ cho toàn thể quý vị thân thể luôn được khinh an, tâm luôn tràn đầy hỷ lạc, gặp nhiều thuận duyên trong tu học, để sau khi tốt nghiệp trở về quê hương, phục vụ cho Phật giáo và con người Việt Nam.

Vì thời gian chuẩn bị ít ỏi và phải làm việc khẩn trương, tuyển tập này không sao tránh khỏi các thiếu sót, nhất là các lỗi chính tả và phong cách trình bày. Kính mong quý độc giả lượng tình thứ lỗi.

Kính chúc chư Tôn Đức Tăng Ni và quý Phật tử luôn sống trong sự an lạc của chánh pháp và hanh thông trong cuộc sống.

Kỷ niệm ngày Phật Thành Đạo, PL. 2545
Ban Biên Tập

--- o0o ---

GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
VỀ NỘI DUNG TUYỂN TẬP
[^]

DẪN NHẬP

"Bản Chất và Con Đường Giác Ngộ và các Vấn Đề Thời Đại" là một tuyển tập, gồm 75 bài viết và dịch về bốn chủ đề chính: i) bản chất và con đường giác ngộ (gồm 21 bài), ii) ý nghĩa Phật thành đạo và niên đại của Ngài (gồm 18 bài), (iii) Phật giáo và các vấn đề thời đại (gồm 28 bài), (iv) Bồ-đề Đạo Tràng: lịch sử và chiêm bái (gồm 8 bài).

Tuyển tập này là kết quả của buổi hội thảo về cùng chủ đề được tổ chức tại Việt Nam Phật Quốc Tự, Bồ-đề Đạo Tràng, Ấn Độ. Buổi hội thảo bắt đầu vào ngày 1-1-2001 (tức ngày mùng 7 tháng 12 AL) và kết thúc bằng buổi lễ tưởng niệm ngày Phật Thành Đạo 8-12 theo truyền thống Đại thừa, ngay cội Bồ-đề thiêng, nơi đức Phật Thích-ca Mâu-ni thành đạt đạo quả giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác, cách đây hơn 25 thế kỷ.

Tác giả và dịch giả các bài viết là chư Tôn Đức giáo phẩm, Phật tử và các học giả trong và ngoài nước cũng như các Tăng Ni sinh đang nghiên cứu và học tập tại các trường đại học tại Ấn Độ. Dù xa cách nhau về địa dư, khác nhau về tuổi tác, vị trí xã hội, các tác giả và dịch giả của buổi hội thảo đều có chung nhau một chí hướng là làm thế nào biến lời Phật dạy thành thực phẩm cho sự sống của con người trong thiên niên kỷ mới, một cách thiết thực và hiệu quả hơn. Phần lớn các bài nghiên cứu đều nhấn mạnh tính chất thiết thực hiện tại của lời Phật dạy và đề nghị các tổ chức Giáo hội Phật giáo trên khắp thế giới nên triển khai và ứng dụng nhiều hơn nữa tinh thần đặc biệt này, để mang thông điệp từ bi, trí tuệ và giải thoát của đức Phật đến với nhân loại. Tính chất thiết thực hiện tại của lời Phật dạy không chỉ làm cho đạo Phật khác với các tôn giáo khác mà thật chất làm cho đạo Phật trở thành đạo nhân bản nhất trong lịch sử tư tưởng của loài người.

I. GIÁC NGỘ: BẢN CHẤT VÀ CON ĐƯỜNG

Nếu giác ngộ là trạng thái tỉnh thức khỏi những trói buộc của cuộc đời, xa lìa vĩnh viễn dòng chảy bất tịnh và bất thiện của tâm, thì phần I là phần được các tham luận viên đề cập đến con đường dẫn đến bản chất của sự giác ngộ đó. Có tất cả 21 bài viết về phần này: 12 bài trình bày về bản chất của giác ngộ (HT. Thích Trí Quảng, Thích Hạnh Chánh, Thích Nhật Từ, Thích Nguyên Hiền, Thích Quang Thạnh, Thích Hiển Chánh, Thích Nữ Giới Hương, Thích Nữ Liên Hoà, Quảng Minh, Tâm Minh, Chính Trực), 6 bài về con đường giác ngộ (TT. Thích Thiện Bảo, Thích Viên Giác, Thích Nhật Từ, Thích Quang Thạnh, Thích Nữ Trí Liên, Thích Nữ Như Nguyệt), 2 bài về quả giác ngộ (Thích Nhật Từ, Thích Hiển Chánh) và 1 bài khảo cứu bản chất và con đường giác ngộ (Thích Nữ Huệ Liên).

- Mở đầu cho phần này là bài viết "Ý Nghĩa Phật Thành Đạo theo Kinh Hoa Nghiêm" của HT. Thích Trí Quảng. Bằng một lối văn nhẹ nhàng và cách giải thích trên phương diện ứng dụng, bài viết của Hoà Thượng đã khẳng định ba giá trị thành đạo của đức Phật trong bộ kinh Đại thừa quan trọng này. Thứ nhất, đức Phật chứng đắc giác ngộ tối thượng từ một con người phàm, nhờ vào các phương pháp thiền định chân chánh và cao siêu. Thứ hai, thành đạo là một quá trình chuyển hoá tâm linh từ phàm phu ra thánh nhân. Đức Phật đã trải qua sự tu tập của nhân thừa, rồi đến Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ-tát thừa để chứng được Phật quả. Thứ ba, con đường giác ngộ đó bắt nguồn từ sự phát tâm của một phàm phu hướng đến quả vị giác ngộ mà ta thường gọi là phát tâm bồ-đề, và trải qua 52 chặn đường của các cấp độ tu tập Bồ-tát hạnh, và kết thúc ở quả vị giác ngộ tối thượng chánh đẳng chánh giác. Nói cách khác, con đường giác ngộ theo kinh Hoa Nghiêm là con đường dấn thân của một vị Bồ-tát vào đời khổ đau để chuyển hoá các đau khổ của chúng sanh thành hạnh phúc. Để làm việc đó, vị Bồ-tát phải vận dụng phương tiện thiện xảo, tùy duyên trong đời nhưng bất biến trong các biến động và cám dỗ của đời, như hình ảnh hoa sen mọc lên từ bùn nhưng không bị bùn làm nhơ uế.

- Xác định "Bản Chất và Con Đường Giác Ngộ trong Đạo Phật," Sư cô Huệ Liên thảo luận hai vấn đề mấu chốt trong Phật giáo, đó là bản chất và con đường hướng đến giác ngộ. Với cách trình bày cô đọng, xoáy vào trọng tâm, bài viết đã tuần tự đưa ra các nội dung chính yếu của giác ngộ trong Phật giáo nguyên thủy. Giác ngộ là tuệ tri (i) ba minh, (ii) tứ diệu đế, (iii) lý nhân quả, (iv) lý duyên khởi, (v) vô thường và vô ngã, (vi) tánh không của mọi hiện hữu, (vii) hàng phục ma quân tham sân si, (viii) bản chất như thị của các pháp. Với trí tuệ về tám điều quan trọng này, một hành giả được xem là một bậc giác ngộ, sống vượt lên trên và giải thoát khỏi mọi trói buộc ở đời. Con đường giác ngộ được trình bày trong bài viết này là con đường thánh gồm tám yếu tố hoặc còn được gọi là con đường trung đạo, xa lìa và vượt lên trên các phương thức nhị nguyên cực đoan.

Bằng cách vận dụng ngôn ngữ của tâm lý học và nhận thức luận, tác giả đã diễn giải giác ngộ như là sự chuyển hoá nhân tính một cách trọn vẹn về bốn phương diện. Về nhận thức, giác ngộ là sự chuyển thức thành trí. Về tình cảm, giác ngộ là chuyển hoá các tình tự bất thiện, các kinh nghiệm đau khổ thành các tâm lý thiện ích và cảm giác an vui. Về thái độ, giác ngộ là chuyển hoá lòng vướng mắc thành xả bỏ. Về cách cư xử, giác ngộ là chuyển hoá hoạt động xấu ác thành hoạt động thiện ích. Nói chung, giác ngộ không phải là sự xa lánh cuộc đời, sự cầu an trong rừng sâu núi thẳm, mà là trạng thái sống ung dung, tự tại, thoát khỏi mọi trói buộc của cuộc đời trong từng giây phút chánh niệm, tỉnh thức của hiện tại.

- Bài nghiên cứu "Quả Vị Giác Ngộ dưới Cội Bồ-Đề" của đại đức Thích Nguyên Hiền đã đề cập đến bốn vấn đề mấu chốc của giác ngộ trong đạo Phật. Thứ nhất, đứng trên lập trường tuyệt đối luận, tác giả đã lý giải "giác ngộ là một cái gì tối hậu, tuyệt trù, chỉ có người giác ngộ mới hiểu hết chiều sâu của nó." Thứ hai, theo tác giả ba minh và sáu thông là một trong những kinh nghiệm giác ngộ mà đức Phật đã đạt được như dấu hiệu chỉ cho sự trở thành toàn giác của Ngài. Tác giả cũng đã nghiên cứu chuyên sâu về các học thuyết này trong nguồn văn học A-hàm, rất đáng cho độc giả lưu tâm. Thứ ba, tác giả đã trở về tương đối luận khi kết luận rằng giác ngộ là sự diệt trừ toàn vẹn dòng vô minh. Ngoài ra, tác giả còn đề cập sơ lược về ý nghĩa vốn-giác-ngộ (bản giác) và mới-giác-ngộ (thủy giác) của Phật giáo Đại thừa nhằm lý giải về bản chất giác ngộ của Phật.

- Trên lập trường cho rằng đạo Phật không phải là một hệ thống triết học cốt thoả mãn tri thức hiếu kỳ, bài "Thử Bàn Tu Chứng Quan Phật Giáo" của đại đức Thích Hạnh Chánh nhấn mạnh đến các giá trị thực chứng nội tại trong Phật giáo.

Với niềm thâm tín, tác giả cho rằng tu chứng quan Phật giáo xác định con đường giải thoát chính là thực hành giới định tuệ. Thiếu ba yếu tố này, con đường giải thoát sẽ vĩnh viễn vẫy tay chào từ biệt chúng ta. Người học Phật không nên xem kinh điển là những bản nhạc hát lên khi hứng khởi mà là ánh sáng soi đường thực nghiệm tu tập. Do đó, người học Phật phải là người tu Phật, thoát khỏi các phiêu lưu tri thức, thoả mãn hiếu kỳ hay tranh luận khoái khẩu.

Theo tác giả, hệ thống giáo lý Phật qua ngôn thuyết một mặt đóng vai trò hướng dẫn cho người mới vào đạo, mặt khác như ngón tay để chỉ mặt trăng, chứ không phải bản thân của mặt trăng. Nói khác đi, kinh điển Phật giáo chỉ là những tấm bản đồ, mà nhiệm vụ chính yếu của người đệ tử Phật là dựa theo nó để đạt được trạng thái an lạc giải thoát. Chính vì vậy, trong kinh Đại thừa, đức Phật tuyên bố rằng Ngài chưa từng nói một chữ trong suốt cuộc đời hoằng pháp. Điều này không có nghĩa Ngài phủ nhận những gì Ngài dạy, mà cốt xác định rằng ngôn thuyết không phải là bản chất của chân lý cũng như ngón tay không phải là mặt trăng, bản đồ không phải là con đường. Với nhận thức như vậy, hành giả Phật giáo sau khi chứng đắc sẽ không còn vướng mắc vào các ý niệm và cảnh giới chứng đắc, nhờ đó, sự chứng đắc trở nên siêu tuyệt.

- Dựa trên phương diện lịch sử của sự chứng ngộ của đức Phật dưới cội Bồ-đề thiêng, "Sự Giác Ngộ của Đức Phật là Quá Trình Chuyển Hoá Tâm Linh" của đại đức Thích Quang Thạnh xác định giác ngộ là một quá trình chuyển hoá nhân tính một cách "tiệm tiến" như một logic tất yếu. Tiến trình này bắt đầu từ phương pháp tu tập xa lánh hai cực đoan hưởng thụ dục lạc và khổ hạnh ép xác và kết thúc bằng sự hoàn thành đời sống đạo đức, thiền định và trí tuệ thông qua con đường thánh gồm tám yếu tố. Tác giả đã khẳng định nếu giác ngộ của Phật là tiệm tiến thì sự tu tập của người con Phật không thể là "đốn giác" hay "đốn ngộ." Kế đến giác ngộ phải là tinh hoa của sự nỗ lực chân chánh trong tu học của bản thân, không hề có yếu tố tha lực hay ân sủng của siêu nhiên.

- Bắt đầu bằng việc phân tích từ nguyên, bài "Khái Niệm Giác Ngộ trong Đạo Phật" của S. K. Nanayakkara, do Sư cô Liên Hoà dịch, trình bày sơ lược về nội dung của khái niệm "bồ-đề" (bodhi) trong Phật giáo Nguyên thủy cũng như lịch sử phát triển nội dung và học thuyết giác ngộ trong các truyền thống Phật giáo. Nếu trong Phật giáo Nguyên thủy, giác ngộ được hiểu là sự chứng đắc ba minh, túc mạng minh (tuệ tri về đời sống quá khứ của bản thân), thiên nhãn minh (tuệ tri chuỗi sanh tử của chúng sanh do nghiệp) và lậu tận minh (tuệ tri sự vắng mặt toàn bộ các lậu hoặc), mà tất cả những vị A-la-hán, bao gồm cả đức Phật, chứng đắc được thì trong Phật giáo Đại thừa, quả vị này chưa phải là thể hiện của sự chứng đắc tâm linh rốt ráo.

Tác giả cũng đã tóm tắt các phương tiện giác ngộ khác nhau tùy theo các tông phái chính trong Phật giáo. Theo Phật giáo Nguyên thủy, giác ngộ được thực hiện bằng con đường thánh gồm tám yếu tố, hay bảy yếu tố giác ngộ, nói chung ba mươi bảy yếu tố giác ngộ. Theo Phật giáo Đại thừa, sáu Ba-la-mật và mười địa là những nhân tu để đạt được giải thoát. Tịnh Độ tông chủ trương nương vào tha lực của Phật A-di-đà trong khi đó, thiền tông chủ trương kiến tánh thành Phật v.v… Dù các pháp môn có khác nhau, nhưng mục đích giải thoát vẫn là một.

- Khác với Thích Nguyên Hiền, bài "Có Một Sự Thật" của Quảng Minh đã dựa vào kinh điển P li chứng minh sự giác ngộ của đức Phật là nhờ vào sự quán sát lý duyên sinh đối với tất cả pháp. Sau khi giải thích một cách ngắn gọn nội dung thuyết duyên khởi, tác giả đã khẳng định rằng tuệ tri về lý duyên khởi không chỉ là mục tiêu của kinh điển P li mà ngay cả các kinh điển Đại thừa cũng đã có những quan điểm tương tự dưới các tên gọi khác. Chẳng hạn Kinh Pháp Hoa gọi đây là "Thế gian tướng thường trụ," Trung Luậngọi là "thật tướng," Kinh Bát-nhãgọi là "Không," Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Niết-bàngọi là "Diệu hữu," Thiền tông gọi là "Bản địa phong quang."

- "Bản Chất của Bồ-Đề, Giác Ngộ, Niết-Bàn và Con Đường Giải Thoát" của cư sĩ Tâm Minh đã giới thiệu về một cách tiếp cận con đường giải thoát trong kinh Thủ-lăng-nghiêm. Dựa vào triết lý giải thoát phải được thực hiện tại thế gian và phát khởi từ tâm, tác giả đã cho thấy mọi phiền não và đau khổ trong đời đều bắt nguồn tâm vọng tưởng và si mê. Đánh mất bản tánh giác ngộ, chúng sanh chạy theo sáu trần nên đã trầm mình trong luân hồi. Người giác ngộ là người nhận chân được điều này, làm chủ sáu quan năng cảm giác, để chúng thoát khỏi mọi chấp mắc của các phản ứng và chấp thủ cảm giác. Tại đây, chúng ta thấy con đường giác ngộ trong kinh Lăng-nghiêmđã gặp gỡ kinh điển Nik ya.

- "Thánh Nhân trong Kinh Điển P li" của đại đức Thích Nhật Từ là bài nghiên cứu từ góc độ triết học về các giá trị đạo đức và nhận thức của các cấp độ thánh nhân trong Phật giáo Nguyên thuỷ. Tác giả đã trình tự trình bày một cách logic các quả thánh này: bậc dự vào dòng thánh, bậc trở lại một lần, bậc không trở lại và bậc A-la-hán, như là kết quả tất yếu của quá trình trau dồi đạo đức, thực tập thiền định và phát triển trí tuệ. Nói cách khác, theo tác giả mức độ diệt trừ các trói buộc và lậu hoặc của tâm chính là tiêu chí xác định các cấp độ thánh trong Phật giáo. Như vậy, sự chuyển hoá tâm lý, nhận thức và hành động đến mức toàn thiện là con đường làm người phàm trở thành thánh. Kế đến tác giả cũng đã cho thấy một vị A-la-hán, quả thánh cao nhất của kinh điển P li, sẽ không còn các thái độ "tôi-là" do đã diệt trừ tận gốc rễ hình thành nên năm nhóm nhân tính tâm vật lý trong tương lai. Thông qua đó, tác giả đã trích dẫn kinh điển để đưa ra các tiêu chí xác định đâu là một vị đã chứng quả A-la-hán thật sự.

- "Quả Vị Giác Ngộ: Sự Giải Thích của Thượng Toạ Bộ và Đại Thừa" của đại đức Thích Hiển Chánh là bài nghiên cứu về hai quan điểm truyền thống của kinh điển P li và Đại thừa về các quả vị giác ngộ trong Phật giáo. Trong phần đầu của bài viết, tác giả chứng minh quả vị cao nhất trong kinh điển P li, quả A-la-hán cũng đồng với quả vị giải thoát trong kinh điển Đại thừa, những kinh vốn chỉ xem A-la-hán là quả "hoá thành" hay quả "nhị thừa," vốn chỉ mới nửa chặng đường giác ngộ. Qua phần hai, tác giả trích dẫn một số đoạn kinh Đại thừa tiêu biểu cho thấy quả A-la-hán chưa phải là quả vị giác ngộ tối hậu. Đứng trên lập trường trung đạo, không ngược lại kinh điển P li cũng không phủ nhận kinh điển Đại thừa, tác giả chỉ muốn đính chính một quan điểm sai lầm mang tính truyền thống lịch sử mấy ngàn năm trong Phật giáo, đó là phán đoán cho rằng A-la-hán là ích kỷ, tiểu thừa. Theo tác giả, các cáo buộc đó chỉ phản ảnh một sự hiểu biết phiến diện về lời Phật dạy nói chung, về các bậc A-la-hán nói riêng.

- Bài dịch của Lệ Tâm "Tôi Không Dám Khinh Quý Ngài vì Quý Ngài Sẽ Thành Phật" là bài viết ngắn của tác giả Mick Kiddle về một phương diện ứng dụng của kinh Pháp Hoa trong các mối quan hệ xã hội. Tác giả Kiddle khẳng định rằng nếu tất cả mọi người biết ứng dụng câu phát biểu bất hủ của Bồ-tát Thường Bất Khinh vào cuộc sống, thì chắc rằng tâm khinh thường người khác, thái độ phủ nhận các giá trị "khác mình" của người khác sẽ tan biến. Với thái độ tôn trọng mọi giá trị của cuộc sống, người Phật tử có thể biến chiến tranh thành hoà bình, biến hiềm hận thành tình thương và biến kẻ thù thành bè bạn.

- "Giác Ngộ và Giải Thoát" của cư sĩ Chính Trực là bài viết khẳng định về giá trị tâm linh và đạo đức của Phật giáo như là giải pháp hữu hiệu cho các khủng hoảng xã hội hiện nay ở phương Tây cũng như phương Đông. Tác giả vận dụng phương pháp "bốn chân lý cao thượng" để lý giải nguồn gốc đau khổ của nhân sinh và đưa ra các giải pháp thoát khổ của Phật giáo một cách thuyết phục và gần gũi với đời sống thường nhật của chúng ta. Theo tác giả, con đường cởi mở các đau khổ phải khởi đầu bằng sự tìm hiểu kỹ lời Phật dạy rồi ứng dụng chúng trong cuộc sống. Ở đây, yếu tố van xin và ban phước không có chân đứng trong chân lý của đức Phật.

- Hạnh phúc cao thượng không phải là sự thoả mãn các khoái lạc giác quan. Đó là kết luận của bài "Các Cấp Độ Hạnh Phúc" của đại đức Thích Hiển Chánh. Đứng trên tầm nhìn của Phật giáo, bài viết đã giới thiệu các quan điểm khác nhau về hạnh phúc: hạnh phúc do các khoái lạc giác quan, hạnh phúc từ thiền định và hạnh phúc của niết-bàn.Hạnh phúc giác quan thật ra chỉ là phương diện khác của đau khổ, do vị ngọt của nó quá ít trong khi vị nguy hiểm của nó thì nhiều. Con đường hướng đến hạnh phúc cao thượng của niết-bàn bắt nguồn từ thái độ xem thường các khoái lạc giác quan, dấn thân thực hiện đời sống thiền định và quan trọng hơn khi đạt được các hạnh phúc thiền, hành giả Phật giáo không nên bám giữ và chấp thủ chúng, mà nên hướng tâm về sự diệt trừ các lậu hoặc.

- Bắt đầu bằng cách mô tả về cuộc hành trình tu chứng của đức Phật, bài "Con Đường Giác Ngộ theo Kinh Điển Nik ya" của Sư cô Trí Liên đã cho thấy rằng cánh cửa giác ngộ luôn rộng mở để đón nhận tất cả chúng sanh, bất luận giới tính, giai cấp, chủng tộc và màu da. Dựa vào các cứ liệu trong kinh điển P li, tác giả tuần tự trình bày một cách vắn gọn các con đường đưa đến sự giác ngộ trong đạo Phật. Đó là ba học cao thượng (giới định tuệ), bốn pháp quán niệm, làm chủ các căn, chánh tâm tỉnh giác trước mọi sự vật và sự kiện, an trú chánh niệm trong từng hơi thở, tu tập thiền chỉ và quán.

Theo tác giả, nhờ sự tu tập tinh chuyên các pháp môn trên, hành giả có khả năng giác ngộ và giải thoát cho chính mình. Tiến trình của giác ngộ thường diễn ra theo trật tự chứng đạt sau: bốn thiền thuộc sắc giới, bốn thiền vô sắc giới, sau đó hành giả hướng tâm về lậu tận trí để cảm nhận trạng thái vắng mặt toàn bộ lậu hoặc. Cũng có hành giả, sau khi chứng được các thiền sắc và vô sắc liền vận dụng tuệ quán để nhập vào trạng thái không còn cảm giác và nhận thức, sau đó mới hướng tâm về ba minh để chứng đắc giác ngộ, vượt thoát vĩnh viễn khổ đau của sanh tử.

- Xem giáo pháp như một phương thuốc tâm linh, bài "Phương Pháp Chuyển Hoá và Tâm Nguyện Độ Sanh của Đấng Từ Phụ" của Sư cô Như Nguyệt khẳng định các giá trị chuyển hoá đau khổ mang lại hạnh phúc an vui của chánh pháp. Lập cước trên tinh thần của kinh điển P li, tác giả lý luận rằng nếu đau khổ liên hệ và thuộc về cảm thọ, thì con đường giải thoát là con đường làm chủ các giác quan, thanh tịnh hoá các cảm giác. Mặt khác, nếu thái độ chấp ngã và ngã sở hữu là những đầu mối của đau khổ thì dòng tuệ giác nhận diện vọng tưởng và chuyển hoá tâm sẽ giúp ta thoát khỏi đau khổ.

Ngoài ra, tác giả còn trình bày các con đường diệt trừ đau khổ khác, như là quán chiếu về các nguyên lý vô thường, khổ và vô ngã, liễu tri bản chất của mọi hiện hữu như chúng là, phát huy các đức tính nhẫn nhục, chia xẻ hiểu biết và nhận thức, và quan trọng nhất là phát tâm Bồ-đề hay nuôi lớn hạt giống Phật. Với hành trang của các pháp môn đơn giản nhưng hiệu quả này, tác giả tin tưởng rằng, con người sẽ có được một cuộc sống an vui và giải thoát.

- Một nghiên cứu mang tính cách chuyên sâu về niết-bàn là bài viết "Niết-bàn: Bản Chất và Mục Tiêu Giác Ngộ" của đại đức Thích Nhật Từ. Bằng cách liệt kê các khái niệm đồng nghĩa của niết-bàn, tác giả đã trình bày ba khuynh hướng giải thích về bản chất của niết-bàn. Đó là lối giải thích mang tính đoạn diệt luận, lối giải thích mang tính siêu nhiên luận và lối giải thích mang tính phi siêu nhiên. Theo tác giả, cách tiếp cận niết-bàn là đoạn diệt thường tìm thấy trong các tác giả duy vật luận và những người không tin vào sự hiện hữu của các đời sau; trong khi quan niệm cho rằng niết-bàn là siêu nhiên không thể diễn tả được chỉ là kết quả của sự đánh đồng niết-bàn với khái niệm đại ngã trong của truyền thống Áo Nghĩa Thư của Bà-la-môngiáo. Cách tiếp cận thứ hai thật ra đã rơi vào chủ nghĩa thường kiến luận, đánh đồng niết-bàn với với một thực thể siêu việt thường hằng. Tác giả đã khẳng định, chỉ có cách tiếp cận niết-bàn dưới góc độ phi siêu nhiên, một cách tiếp cận trung đạo về niết-bàn mới giúp chúng ta lý giải chính xác bản chất của niết-bàn. Tác giả đã tuần tự dẫn chứng và phân tích bốn đoạn mô tả trong Cảm Hứng Ngữđể chứng minh cho cách tiếp cận này. Tác giả cũng đã trình bày tiến trình của tiếp xúc, cảm giác, nhận thức trong niết-bàn và đã so sánh rất thú vị về sự khác nhau của trạng thái thiền không còn cảm giác và nhận thức với trạng thái vắng mặt các lậu hoặc của niết-bàn.

- Để giúp cho độc giả hiểu rõ mối quan hệ đặc biệt giữa vô ngã và niết-bàn, đại đức Thích Hiển Chánh đã viết bài "Vô Ngã và Niết-bàn." Bài này nhắm đến hai mục đích sau đây. Thứ nhất là xác định rằng trạng thái hạnh phúc của niết-bàn là siêu việt thời gian, do đó không thể đặc cách hoá niết-bàn là thường. Thứ hai là đính chính quan điểm sai lầm cho rằng vô ngã là niết-bàn của một số học giả Phật học Việt Nam. Tác giả chứng minh rằng mặc dù tuệ tri được bản chất vô ngã trong mọi hiện hữu là một trong những con đường giúp ta chứng đạt niết-bàn nhưng sẽ sai lầm nghiêm trọng nếu ta đánh đồng bản chất vô ngã của mọi sự vật với trạng thái của niết-bàn.

- "Niết-bàn và Sự Chấm Dứt Luân Hồi" của đại đức Thích Hiển Chánh là cách tiếp cận khác về bản chất của niết-bàn trong Phật giáo. Đứng trên góc độ giải thoát học, tác giả đã chứng minh cho chúng ta thấy sự giác ngộ và giải thoát trong Phật giáo không phải là sự xa lìa thế gian, lẫn tránh cuộc đời mà là sự chấm dứt sự tái sanh trong luân hồi ở các hiện hữu sau. Nói cách khác, mục tiêu của Phật giáo là tận dụng đời sống hiện tại để chấm dứt sự tái sanh trong đời sống tương lai.

- Về phương pháp giác ngộ trong kinh điển Đại thừa, đại đức Thích Viên Giác đã giới thiệu tám điều giác ngộ của Phật và Bồ-tát trong kinh Bát Đại Nhân Giác, một bộ kinh ngắn quan trọng như kinh Pháp Cú của Thượng Toạ bộ. Đó là sự quán chiếu về bản chất vô thường, khổ, vô ngã của mọi hiện hữu, tác hại của sự tham đắm dục lạc, lợi ích của các đức tính tinh tấn, sự độ lượng, diệt trừ vô minh bằng thiền định v.v… Thông qua sự phân tích nội dung của từng điều giác ngộ, tác giả đã chỉ ra hai tác dụng xuất thế và nhập thế của kinh như là bản chất chung của lời Phật dạy và trình bày sáu bước đi của một lộ trình tu lý tưởng.

- Bài kế đến, "Bảy Phương Pháp Đi Đến Giác Ngộ" của TT. Thích Thiện Bảo là bài giải thích cặn kẽ về thất giác chi hay thất Bồ-đề phần trong kinh điển P li và Đại thừa. Với lối giải thích vừa giáo khoa vừa phương pháp, Thượng toạ đã tuần tự phân tích từng nội dung của các yếu tố dẫn đến sự chứng đạt giác ngộ trong đạo Phật, giúp cho độc giả dễ ứng dụng vào đời sống thường nhật. Theo tác giả, các phương pháp này không phải là sở hữu của Thượng tọa bộ hay Đại thừa mà thật ra là bản chất có cùng vị giải thoát của toàn bộ lời Phật dạy.

- Cuối cùng, bài viết "Con Đường Thánh Gồm Tám Yếu Tố" của đại đức Thích Nhật Từ là bài nghiên cứu về con đường giải thoát trong Phật giáo. Đó là chân lý thứ tư trong bốn chân lý thánh mà đức Phật đã dạy trong bài pháp đầu tiên trong cuộc đời hoằng hoá của Ngài. Con đường gồm tám yếu tố này được phân thành ba nhóm tu học đó là (i) đạo đức (các yếu tố 3, 4, 5), (ii) thiền định (các yếu tố 6, 7, 8) và trí tuệ (hai yếu tố 1, 2). Phối hợp với lối giải thích trong kinh điển P li, tác giả đã trình bày hai góc độ thế gian và siêu thế gian của từng yếu tố giác ngộ một. Nói chung tùy thuộc vào cách nhìn và nhất là mục đích sử dụng các yếu tố giác ngộ mà chúng có thể trở thành lợi ích cho đời sau (thế gian) hay mang lại sự giải thoát khỏi luân hồi (siêu thế).

II. Ý NGHĨA PHẬT THÀNH ĐẠO VÀ NIÊN ĐẠI CỦA NGÀI

Đây là phần II của tuyển tập các bài viết và dịch về ý nghĩa thành đạo và con đường giác ngộ trong mối quan hệ với các vấn đề thời đại. Phần này gồm có 15 bài viết và 3 bài dịch. Trong số các bài viết, có 12 bài viết tưởng niệm (HT. Thích Huyền Tôn, Thích Giác Ngôn, Thích Nguyên Tạng, Thích Thanh Chương, Thích Minh Diệu, Thích Nữ Đồng Anh, Thích Nữ Giới Hương, Thích Nữ Hương Nhũ, Thích Nữ Liên Chương, Minh Thông, Tâm Minh và Chơn Hương) sự kiện thành đạo vô tiền khoáng hậu của đức Phật, 3 bài nghiên cứu về các quan niệm về đức Phật (HT. Thích Trí Quảng, Thích Thị Quả, và Thích Viên Giác). Ba bài dịch liên hệ đến cuộc đời đức Phật (Thích Nữ Liên Hiếu dịch) và niên đại của đức Phật lịch sử (Thích Thiện Quý và Thích Giác Hoàng dịch).

- Bài "Vài Quan Niệm về Đức Phật và Đạo Phật" của HT. Thích Trí Quảng là bài thảo luận về ba điểm (i) quan niệm báo thân Phật trong kinh Hoa Nghiêm, (ii) quan niệm về Phật sau khi Phật niết-bàn và (iii) khẳng định đạo Phật là triết lý sống của thiên niên kỷ mới. Từ đó, Hòa thượng đã khéo chỉ ra con đường thể nhập Phật giáo vào đời sống để mang lại những giá trị thiết thực cho cuộc đời. Tinh thần nhập thế này bắt đầu từ tấm gương hy sinh cao cả của đức Phật, cho đến cuộc đời của các vị A-la-hán và Bồ-tát thời Phật, cho đến các thiền sư, quốc sư của Trung Quốc và Việt Nam. Bài viết kết thúc bằng sự khẳng định rằng người Phật tử dù tại gia hay xuất gia phải thể hiện tình thần từ bi, trí tuệ, bình đẳng, vô ngã vị tha và vô sở uý để hành đạo đem lại lợi ích cho nhân sinh hôm nay và mai sau.

- Với lối liệt kê các từ đồng nghĩa của thuật ngữ "thành đạo," bài "Ý Nghĩa Ngày Thành Đạo" của HT. Thích Huyền Tôn ngoài việc truy nguyên năm âm lịch của ngày Phật thành đạo, còn xác định các ý nghĩa đạo đức quan trọng từ sự kiện lịch sử này. Về mặt hoá độ, thành đạo của Phật không phải thành bậc giác ngộ cho riêng Ngài, mà là cho tất cả chúng sanh, chỉ ra con đường giác ngộ. Về mặt giải thoát, thành đạo là khởi đầu của con đường độ sanh, qua các pháp môn chân chính, dẫn tới giải thoát, và giải thoát đó phải được từng cá nhân thực hiện ngay đây và bây giờ.

Ngoài ra, Hoà thượng còn giới thiệu ý nghĩa của mười bài kinh quan trọng trong Phật giáo Đại thừa, để xác định giá trị thành đạo của Phật như là sự ban tặng cho chúng sanh những tấm bản đồ tu tập. Hoà thượng kết luận bằng lời nhắc nhỡ tất cả Tăng Ni và Phật tử phải tinh tấn hơn nữa để sống thông điệp giác ngộ và giải thoát của đức Phật trong đời sống hàng ngày. Có như vậy, chân giá trị của Phật thành đạo sẽ luôn bên cạnh chúng ta và trong ta.

- Với một văn phong giản dị xen kẽ với thơ ca, bài "Tưởng Niệm Ngày Phật Thành Đạo" của đại đức Thích Giác Ngôn nhấn mạnh giá trị vô song của Bồ-đề Đạo Tràng, vì nhờ sự hiện hữu của nó, các Phật tích khác có ý nghĩa. Kế đến tác giả bày tỏ lòng thành kính tri ân lên đức Phật, bậc đạo sư vĩ đại đã tuyên bố con đường giác ngộ cho quần sanh, do vì lòng thương tưởng đời. Tác giả cũng đã ca ngợi con đường xa xưa mà đức Phật đã đi và tận tình chỉ lại cho chúng ta có khả năng chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh.

- Bài "Sự Vĩ Đại của Đức Phật" của đại đức Thích Viên Giác nhằm ôn lại những đóng góp to lớn của đức Phật cho lịch sử nhân loại trong việc phát hiện và giới thiệu con đường giác ngộ cho nhân sinh và muôn loài: "Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối."

Dựa vào cứ liệu kinh điển P li, tác giả cho thấy sự giác ngộ của đức Phật không gì khác hơn là sự chứng đạt Ba Minh. Do đó, các phán đoán cho rằng đức Phật là bậc toàn trí chỉ là gán cho Ngài danh hiệu mà vốn Ngài đã từng lên án. Điều tác giả muốn ngụ ý với chúng ta là đừng biến đức Phật thành vị thượng đế ban phước giáng họa. Nên hiểu đức Phật như một bậc đạo sư, bậc làm cho phát khởi con đường trước đây chưa từng được hiện khởi, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói; làm cho biết con đường trước đây chưa từng được biết, là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo."

- Với bút pháp kể truyện xen kẽ phân tích cứ liệu lịch sử, bài "Đức Phật Thích-ca: Con Đường từ Khổ Hạnh đến Giác Ngộ" của cư sĩ Minh Thông đã ôn lại cuộc đời của đức Phật từ hai nguồn văn học Pali và Sanskrit. Từ đó, tác giả đưa ra các bài học giải thoát mà người Phật tử cần lưu ý để áp dụng vào đời sống của bản thân, đem lại an lạc cho chính mình và tha nhân.

Các bài học đó là: (i) tiến trình giác ngộ của Phật là tiệm tiến, tuần tự, không có nhảy vọt. Do đó, con đường tu tập của chúng sanh ngày nay cũng nên khởi đi bằng đạo lý tiệm giác này, (ii) không nên lầm lẫn và đánh đồng sự giác ngộ viên mãn của Phật với các tinh thần giác ngộ của thiền tông Trung Quốc như "đại ngộ, liễu ngộ, trực ngộ, kiến tánh" v.v... (iii) con đường giác ngộ phải được khởi đi bằng hành thiền. Thiếu thiền định, hành giả không thể nếm được vị giải thoát.

Với niềm tin đó, tác giả tin tưởng rằng con đường giác ngộ mà Phật đi qua, đã đang và sẽ còn rộng mở để đón nhận những người hữu duyên và quyết chí thực hành thiền định.

- Không chỉ giới hạn nội dung trong tựa đề, bài viết "Cảm Niệm Ngày Thành Đạo" của đại đức Thích Nguyên Tạng một mặt ôn lại những kinh nghiệm tu tập gian khó của đức Phật, mặt khác tin rằng sự thành đạo của Phật là do chiến thắng ma quân nội tâm. Con đường giác ngộ theo tác giả không gì khác hơn là tu tập thiền định, quán chiếu về bản chất duyên khởi của thực tại như chúng là. Nhờ đó mà giác ngộ được thành tựu. Nói cách khác, theo tác giả, thành đạo của Phật là thành tựu ba minh: rõ biết quá khứ của bản thân, rõ biết nghiệp duyên của chúng sanh và rõ biết sự chấm dứt hoặc lậu trong tâm.

Nhìn và đánh giá các giá trị đạo đức của thành đạo từ góc độ lịch sử, tác giả điểm qua sự phát triển của Phật giáo xưa và nay, ở Đông phương và Tây phương, và tin tưởng rằng ánh sáng giác ngộ của Phật sẽ chóng trở thành sự sống mới của phương Tây trong thiên kỷ thứ ba này.

Ngoài ra, tác giả còn khẳng định rằng đức Phật không chỉ là một vị đạo sư lỗi lạc mà còn là một triết gia, một nhà xã hội học, nhà giáo dục tài ba và là bậc thầy thuốc thiên tài trị tâm bịnh của chúng sanh trong ba cõi.

- Bằng ngôn ngữ ẩn dụ sinh động, bài "Cuộc Hành Trình Vi Diệu" của đại đức Thích Thanh Chương đã sánh ví quá trình thực nghiệm tâm linh, chứng đắc giải thoát của đức Phật dưới cội Bồ-đề như một cuộc hành trình vĩ đại hay vi diệu. Cuộc hành trình vi diệu ấy gồm bốn chặn đường. Thứ nhất là phát xuất bằng tiếng gọi của lòng từ bi, thương xót nỗi đau thống thiết của nhân sinh. Thứ hai từ bỏ đời sống vương triều để tìm cầu chân lý cứu độ nhân sinh. Thứ ba là thực hiện và thể chứng tâm linh qua con đường trung đạo, thoát ly khỏi hai cực đoan (hành xác và hưởng thụ dục lạc). Đây là con đường thánh gồm tám yếu tố. Thứ tư là sự giác ngộ trọn vẹn và hoằng pháp lợi sanh.

Là người Thích tử, tác giả chân thành kêu gọi tất cả mọi người hãy dấn thân vào con đường thực nghiệm tâm linh mà đức Phật đã đi qua, để cùng chứng đạt những gì mà đức Phật đã đạt, để giác ngộ những gì Phật đã giác ngộ. Được như vậy thì mỗi người luôn có một vị Phật tiềm ẩn và là một đức Phật sẽ thành trong tương lai.

- Loại bỏ tất cả các yếu tố huyền thoại và thần bí mà dòng thời gian đã phủ lên đức Phật, tiến sĩ David J. Kalupahana đã vẽ lại bức tranh tương đối hoàn hảo về "Cuộc Đời Đức Phật." Thực ra đó là chương thứ hai mang cùng tên, được Sư cô Liên Hiếu dịch từ quyển sách nổi tiếng của ông "Lịch Sử Triết Học Phật Giáo: Dòng Tiếp Nối và Gián Đoạn" (A History of Buddhist Philosophy: Continuities and Discontinuities). Bằng cách vận dụng ngôn ngữ triết học, tác giả đã phác thảo cuộc đời đức Phật như thể hiện trọn vẹn của con đường "trung đạo" từ lúc Ngài còn là thái tử cho đến lúc từ bỏ cung vàng điện ngọc và tu hành thành Phật. Nếu sự chứng đạo của đức Phật là do nhận chân và thực hành theo con đường trung đạo, xa lìa hai cực đoan khổ hạnh hành xác và hưởng thụ khoái lạc trần thế, thì sự giác ngộ của Ngài là chứng đạt tuệ tri về sự chấm dứt các lậu hoặc phiền não, chứ không phải "toàn trí" một nhãn hiệu mà người sau đã gán cho Ngài.

Cũng như con đường trung đạo mà Ngài đã chứng, con đường hoằng pháp của Ngài cũng trung dung, không nhằm lật đổ các thể chế chính trị bấy giờ mà nhằm xác định thể chế tập cấp xã hội, phân biệt nam nữ là sai lầm, không có giá trị cho sự phát triển đời sống đạo đức và an bình xã hội. Thay vào đó, đức Phật giới thiệu các nguyên tắc đạo đức cao thượng, hướng dẫn cách sống "thiền" để phát sanh trí tuệ, làm chủ bản thân và xã hội.

- "Vài Suy Nghĩ về Quan Niệm Đức Phật Lịch Sử và Đức Phật Tôn Giáo" của đại đức Thích Thị Quả nhằm phê bình các cách tiếp cận nhị nguyên về đức Phật của các nhà nghiên cứu Phật học hiện đại cũng như những người thuộc các tôn giáo khác. Theo tác giả, cách tiếp cận đức Phật từ góc độ lịch sử thuần tuý sẽ làm cho đức Phật trở thành một con người bình thường như bao nhiêu con người khác, trong khi đức Phật không phải là một người bình thường mà là một con người giác ngộ viên mãn. Nói khác hơn, nếu lịch sử có những giới hạn của nó thì cách tiếp cận đức Phật qua lịch sử thuần tuý sẽ cũng không thể tránh được các hạn chế.

Mặt khác, tác giả cũng không đồng tình với cách tiếp cận đức Phật từ góc độ tôn giáo, bởi vì phương pháp này sẽ biến đức Phật giác ngộ thành một vị thần linh hay thượng đế của các tôn giáo khác. Tác giả cho rằng những điều mà các học giả cho là thần thoại hay thần thánh hoá về đức Phật trong kinh điển Đại thừa thật chất chỉ là kết quả của sự không nhận ra được các đặc tính thù diệu và khác thường của đức Phật. Để kết luận bài viết của mình, tác giả đề nghị không nên áp đặt hai khái niệm đức Phật lịch sử và tôn giáo lên con người của đức Phật. Hãy nhìn đức Phật như là một bậc giác ngộ vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.

- Tiếp theo hai bài viết quan trọng trên là bài của đại đức Thích Minh Diệu mang tựa đề "Ý Nghĩa Phật Thành Đạo và các Giá Trị Thực Tiễn." Như tên gọi của bài viết, tác giả đã nhấn mạnh đến bốn ý nghĩa quan trọng từ sự thành đạo của đức Phật và thông qua đó đưa ra ba giá trị thực tiễn. Bốn ý nghĩa đó là (i) đức Phật đã chiến thắng quân ma, (ii) sự chiến thắng đó đã mở ra cánh cửa bất tử cho chúng sanh, (iii) các chúng sanh đều có thể giác ngộ như Phật, (iv) bởi vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh hay khả năng thành Phật. Ba giá trị thực tiễn từ sự thành đạo của Phật là nên tu học các giá trị thực tiễn của giáo pháp Phật, nên noi gương đức Phật và nên truyền bá giá trị miên viễn của giáo pháp Phật. Theo tác giả, đó là cách góp phần phục hưng nền đạo đức đang bị suy thoái hiện nay.

- Với bút pháp tường thuật về cuộc đời tu tập và thành đạo của đức Phật, bài viết của sư cô Giới Hương "Trầm Tư về Ngày Thành Đạo" đã gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ về sự cống hiến vĩ đại của đức Phật cho lịch sử nhân sinh thông qua sự khám phá con đường giác ngộ và truyền bá con đường đó cho chúng sanh, một cách đầy cam go và thử thách. Bài viết khẳng định giá trị của tự do tư tưởng trong khám phá chân lý mà bản thân đức Phật đã từng kinh qua và thành công. Theo đó, tác giả cho rằng thái độ rộng lượng và bao dung sẽ giúp chúng ta tiếp nhận các giá khác biệt của người khác, sống hòa đồng với người để góp phần cứu giúp người thoát khỏi đau khổ của kiếp nhân sinh.

- Ôn lại cuộc hành trình tu chứng của đức Phật lịch sử, bài "Đức Phật Nói về Tiềm Năng của Con Người" của Sư cô Đồng Anh đã khẳng định chân lý bất hủ mà đức Phật đã tự mình khám phá và tuyên bố, đó là "tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và con đường thể nhập Phật tánh này không gì khác hơn là sự tu tập đạo đức, trí tuệ và thiền định của bản thân."

Với niềm tin chân chánh về sự bình đẳng trong đạo đức và tu chứng của nữ giới, tác giả cho rằng, nếu con đường giác ngộ bản tâm được thành tựu nhờ vào thực nghiệm tâm linh thì chắc chắn sự thực nghiệm đó không có bóng dáng của phân biệt giới tính, chủng tộc và màu da. Lời dạy bảo cao siêu này đã làm cho hàng ngàn người phàm kẻ tục trở thành thánh nhân, biến bóng tối u mê thành ánh sáng tuệ giác, biến đau khổ thành hạnh phúc.

- Bằng lối viết kể chuyện đầy hình ảnh gắn liền với các liên hệ về đời sống hiện thực, bài viết "Ý Nghĩa Phật Thành Đạo" của sư cô Liên Chương đã khẳng định sự kiện Phật thành đạo mang nhiều ý nghĩa. Về mặt giải thoát, thành đạo của Phật không chỉ đem lại sự an lạc cho bản thân Phật mà còn là sự mở ra con đường giải thoát cho các chúng sanh. Về mặt đạo đức, thành đạo là một quá trình nỗ lực bản thân, để chuyển hoá các phàm tánh thành Phật tánh. Về mặt xã hội, sự thành đạo của Phật mang lại các cải cách về định chế tập cấp bất công bấy giờ. Đức Phật là người đầu tiên đã đề cao giá trị bình đẳng giới tính và bình đẳng về quả vị tu chứng tâm linh. Về mặt thực tiễn sự thành đạo của Phật là một bằng chứng hùng hồn cho chân lý "khổ đau dẫn lối bồ-đề, trần gian là nẻo đi về chân như." Nói cách khác, giải thoát phải được thực hiện từ hành tinh này, trong đời sống hiện tại này, chớ đừng luống công tìm kiếm những thiên đường bánh vẽ. Ngoài ra, tác giả còn liên hệ cuộc đời của đức Phật gắn liền với cây xanh để đề nghị ý thức bảo vệ môi trường, chống lại các huỷ hoại sinh thái của đời sống công nghệ máy móc hiện đại.

_ Với lối kể truyện ẩn dụ, bài "Con Đường Siêu Thế" của Sư cô Hương Nhũ đã ôn lại phương pháp mà đức Thế Tôn đã trao lại "gia tài" cho sa-di La-hầu-la, người con trai khi Ngài còn là Thái tử. Gia tài đó không phải "vương vị vua" của nước Sakya hay cương vị chuyển luân thánh vương của thế giới, lại cũng không phải và vàng bạc, vật chất tiện nghi. Đó là "gia tài giác ngộ" hay "tài sản thánh" mà chính đức Phật đã đạt được dưới cội Bồ-đề thiêng: (i) sống thoát ly thế gian đầy phiền não, (ii) giữ hạnh chơn thật, (iii) giữ thân khẩu ý hằng thanh tịnh, (iv) thu thúc lục căn, (v) xa lánh dục tình, (vi) tu tập thiền quán và (vii) quán pháp vô ngã. Gia tài thánh đó không nằm ở đâu xa xôi, mà nằm ngay chính tâm con người.

Với niềm tin vững chắc vào tiềm năng của thế hệ tăng ni trẻ, tác giả mong mỏi chư tôn đức lãnh đạo giáo hội hãy quan tâm và trao gia tài thánh cho họ, những người sẽ tiếp sức chư tôn đức gánh vác trách nhiệm tuyên bố thông điệp của đức Phật hôm nay và mai sau.

- Như tên gọi của bài viết, "Bài Học Thành Đạo" của cư sĩ Tâm Minh thảo luận xoay quanh bốn ý nghĩa lớn của sự kiện đức Phật giác ngộ, đó là, (i) con đường giác ngộ là con đường trung đạo, (ii) giải thoát phải được thực hiện bằng con người tại đây và bây giờ, (iii) bản chất của giác ngộ là giải thoát khỏi các trói buộc của vô minh và tham ái, và (iv) do đó ma quân mà Phật chiến thắng chính là các phiền não lậu hoặc. Cả bốn sự kiện này cho thấy sự giác ngộ vốn rất thực tế và không có gì siêu nhiên hay huyền thoại, mà bất cứ ai cũng có thể đạt được bằng sự phấn đấu của bản thân.

- Bài "Một vài Suy Tưởng Nhân Kỷ Niệm Ngày Phật Thành Đạo" của Chơn Hương nhằm ôn lại cuộc đời vô ngã, vị tha của đức Phật, và khẳng định bản chất của đạo Phật như là đạo từ bi và trí tuệ. Với đặc tính từ bi, đạo Phật chủ trương bất bạo động, tôn trọng sự sống và kêu gọi hoà bình trên toàn thế giới. Với đặc tính trí tuệ, đạo Phật là đạo giác ngộ bằng con đường tự lực thiền định của bản thân. Theo đó, tác giả đã kêu gọi và mong mỏi mỗi thành viên tăng đoàn phải là một người mẫu mực về đời sống đạo đức và trí tuệ, là tấm gương sáng cho đời noi theo; mỗi người Phật tử phải là người có niềm tin chân chánh vào ba ngôi báu, trau dồi và thực hành lời Phật dạy, để cuộc sống của bản thân, tha nhân và xã hội trở nên thanh bình và an lạc. Tác giả cũng không quên nhắc chúng ta về tấm gương phục vụ đạo và đời của các vị vua Phật tử anh minh, từ đại đế A-dục của Ấn Độ cho đến Trần Nhân Tông, Trần Thái Tổ cho đến Lý Thái Tông của Việt Nam, để kêu gọi toàn thể người con Phật phải dấn thân vào đời nhiều hơn nữa, làm cho thông điệp giác ngộ của đức Phật thấm nhuần đời sống của sanh linh.

- Hai bài cuối của phần này là hai bài nghiên cứu chuyên đề về niên đại của đức Phật. Bài thứ nhất của học giả Nhật Bản, Hajime Nakamura mang tựa đề "Nghiên Cứu của Người Nhật về Niên Đại của Đức Phật" do đại đức Thích Thiện Quý dịch. Bài thứ hai mang tựa đề "Giới Thiệu Niên Đại Đức Phật Lịch Sử: Vấn Đề Đang Còn Gây Tranh Luận" của học giả Đức Heinz Bechert, do đại đức Thích Giác Hoàng dịch. Cả hai bài này đều được trích từ tuyển tập của hội thảo chuyên đề "When did the Buddha Live? The Controversy on the Dating of the Historical Buddha" (Đức Phật Sống trong Thời Đại Nào? Sự Tranh Luận về Cách Tính Ngày của Đức Phật Lịch Sưdo chính tiến sĩ Heinz Bechert biên tập.

Như tựa đề của chúng, bài thứ nhất là bài giới thiệu về các học thuyết khác nhau của học giả Nhật bàn về niên đại của đức Phật, trong khi bài thứ hai là bài giới thiệu tổng quát các nghiên cứu khác nhau từ trước đến giờ về niên đại của đức Phật, được đăng trong tuyển tập của hội thảo chuyên đề về niên đại của đức Phật. Nó không chỉ giới thiệu những phương pháp tiếp cận bất đồng về đề tài, giới thiệu chi tiết nguồn văn học quý giá về đề tài, mà còn nói lên tinh thần học đường vốn không chịu khuất phục các huyền thoại được dán lên đức Phật qua dòng thời gian trên 25 thế kỷ.

Bài nghiên cứu vô cùng công phu của Heinz Bechert đã đặt lại vấn đề của các biên niên sử truyền thống của Tích Lan, Ấn Độ và các nước Phật giáo có liên hệ về cách tính niên đại của đức Phật, chẳng hạn như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Qua bài viết, tác giả sẽ cho chúng ta thấy hàng trăm học thuyết khác nhau về niên đại của đức Phật, trong đó có cả các trường hợp bịa đặt về biên niên kỷ cũng như cách cấu trúc về các niên-đại-đồng-thời giữa hai nước nào đó thật thiếu logic và khó chấp nhận. Mặc dù không chấp nhập niên đại truyền thống của Tích Lan về năm 624 trước TL như là năm đản sanh của đức Phật, tác giả cho thấy phần lớn các nhà nghiên cứu đều đồng ý cho rằng ngày đản sanh của đức Phật có thể trước hoặc sau năm 560 trước TL vài năm. Trong khi các học giả cố gắng truy nguyên niên đại của đức Phật lịch sử, họ đã đưa ra quá nhiều học thuyết khác nhau đến độ mâu thuẫn và loại trừ nhau. Đó cũng chính là lý do làm cho học thuyết về niên đại đức Phật của các trường phái Phật giáo dựa trên các biên niên sử của mình vẫn còn lý do để tồn tại và thách thức các giới hạn về tri thức lịch sử của con người.

III. PHẬT GIÁO VÀ CÁC VẤN ĐỀ THỜI ĐẠI

Với 28 bài viết và dịch về các chủ đề khác nhau, phần này bao gồm hai nội dung chính: thứ nhất liên hệ con đường giác ngộ của Phật giáo với các vấn đề thời đại, và thứ hai là ứng dụng lời dạy của bậc giác ngộ vào trong các lãnh vực cuộc sống. Với sự đóng góp của nhiều tác giả

Thay mặt Ban Biên Tập
TT. Thích Huyền Diệu

--- o0o ---


Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 118918)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
28/05/2017(Xem: 8969)
Giáo lý đạo Phật là gì? Giáo lý đạo Phật là phương tiện để điều trị thân bệnh và tâm bệnh, là dược liệu của sự chân thật giúp cho người bệnh hiểu rõ bản chất của sự thật, của chân tâm để đạt đến sự giác ngộ rốt ráo. Chúng sinh do tâm bệnh nên có thân bệnh phát tác và mãi trong chuỗi dài sinh tử luân hồi, con người phải trải qua bốn giai đoạn là sinh, già, bệnh, chết; là quy luật tất yếu của thế giới sinh – diệt, chúng sinh nào muốn liễu sinh thoát tử, phải điều trị bệnh bằng các bài thuốc mà đức Phật đã chỉ dạy.
22/05/2017(Xem: 49170)
Trong bước đầu học Phật, chúng tôi thường gặp nhiều trở ngại lớn về vấn đề danh từ. Vì trong kinh sách tiếng Việt thường dùng lẫn lộn các chữ Việt, chữ Hán Việt, chữ Pali, chữ Sanscrit, khi thì phiên âm, khi thì dịch nghĩa. Các nhân danh và địa danh không được đồng nhứt. Về thời gian, nơi chốn và nhiều câu chuyện trong sự tích đức Phật cũng có nhiều thuyết khác nhau làm cho người học Phật khó ghi nhận được diễn tiến cuộc đời đức Phật. Do đó chúng tôi có phát nguyện sẽ cố gắng đóng góp phần nào để giúp người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần.
13/02/2017(Xem: 5102)
Này Ananda, nếu có Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư sĩ nam hay cư sĩ nữ nào thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp, hành trì đúng Chánh pháp, thời người ấy kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường Như Lai với sự cúng dường tối thượng. (Đại Bát Niết Bàn – Trường Bộ Kinh)
05/01/2017(Xem: 9133)
Sao Mai từ góc trời lên Tử sinh đã dứt não phiền đã tan Mười phương thế giới hân hoan Mừng đấng Chánh Giác với ngàn lời ca. Mừng ngày Đức Phật thành đạo (8-12 âm lịch). Đây là hình ảnh rất thiêng liêng và cao quý đối với người Phật tử, vì đây là lúc thái tử Siddhartta Gautama đã tìm ra được đạo lớn sau 49 ngày thiền định miên mật dưới gốc cây Bồ Đề, và nhờ đó Phật giáo đã có mặt và tồn tại suốt 2600 năm qua, mang lại lợi ích cho vô lượng vô số chúng sinh.
01/10/2016(Xem: 7559)
Vào khoảng năm 1978, chùa chúng tôi xảy ra một biến cố làm cho tất cả mọi người có thêm kinh nghiệm về việc tái sinh và nghiệp báo. Nếu biến cố này xảy ra trước 1975 thì chắc những tờ nhật báo tha hồ khai thác để làm tiền thiên hạ, và chùa chúng tôi sẽ bị ảnh hưởng không ít vì cảnh “dập dìu tài tử giai nhân” đua nhau tới chùa tìm hiểu sự vụ, hòng kiểm chứng những lời tường thuật của báo chí. Nhưng nhờ sự cố đã xảy ra vào một thời rất căng cho các chùa chiền, thêm nữa chùa chúng tôi ở nơi thật hẻo lánh trên núi thì ai biết được sự cố hy hữu đã xảy đến.
27/12/2015(Xem: 8863)
Lễ Vía Đức Phật A Di Đà 2015 tại TV Minh Quang Sydney, Úc Châu, Chủ Nhật 26-12-2015
02/06/2015(Xem: 12718)
Trước khi ôn lại Tiểu Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, để người đọc nhận định dễ hơn về ngày tháng ghi trong tiểu sử của Ngài, chúng tôi xin nhắc lại là Đức Phật Thích Ca sanh vào năm 624 trước Tây Lịch. Ngài nhập Niết Bàn lúc 80 tuổi vào năm 544 trước Tây Lịch. Sáu trăm hai mươi bốn năm sau, Tây Phương mới bắt đầu chọn năm sinh của Đức Chúa Jesus Christ làm khởi điểm cho Dương lịch. Như vậy tính đến nay là năm 2015 thì Đức Phật đã ra đời được 2,639 năm và chiếu theo Phật lịch khởi đầu từ năm Đức Phật viên tịch (năm 544 trước TL) thì Ngài đã nhập Niết Bàn được 2,559 năm. Việt Nam và các quốc gia thuộc khu vực Đông Á như Nhật Bản, Trung Hoa, Triều Tiên ... từ xưa đều làm Lễ Phật Đản vào ngày mồng 8 tháng Tư Âm Lịch. Tên gọi tắt dành cho ngày Lễ Phật Đản là "Ngày mồng Tám tháng Tư" đã lưu truyền hằng bao thế kỷ, trở thành phong tục tập quán cổ truyền, ghi đậm vào tâm khảm của mọi người kể cả người theo hay không theo Phật giáo.
30/01/2015(Xem: 8251)
Hôm mồng 08 tháng 12 Âm lịch (27/01/2015), Tổ đình Thiền tông Thiếu Lâm Tự tổ chức nấu Cháo Bát Lạp, để dâng cúng dường Kỷ niệm ngày đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật, hoạt động này đã thu hút hàng trăm Phật tử tham gia chế biến món truyền thống với hương vị đặc trưng này. Hôm nay cũng là Lễ hội Cháo Bát Lạp nhân Kỷ niệm ngày đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật, được gọi là “Pháp Bảo Tiết”. Vào buổi sáng lúc 08 giờ 30 phút, Hòa thượng Thích Vĩnh Tín, Phương trượng Thiếu Lâm Tự, cùng đại chúng vân tập Đại Hùng Bửu điện cử hành cung phụng Pháp hội, những tình nguyện viên, thiện nam tín nữ Phật cầu Phúc.
29/01/2015(Xem: 5518)
Nam Mô Bồ Đề Thọ Hạ Đại Thắng Ma Quân Dạ Đổ Minh Tinh Đạo Thành Chánh Giác Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Sao Mai từ góc trời lên Tử sinh đã dứt não phiền đã tan Mười phương thế giới hân hoàn Mừng Đấng Giác Ngộ với ngàn lời ca.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567