Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thượng Võ Và Từ Bi

21/06/201819:57(Xem: 4932)
Thượng Võ Và Từ Bi
vua tran nhan tong

Thượng Võ Và Từ Bi

Nguyên Giác

 

Thượng võ, có nhiều nghĩa. Trong danh từ, nghĩa đơn giản là đề cao, ưa thích võ thuật. Nhưng tĩnh từ, có nghĩa là tâm hồn cao thượng của người đã sống được võ đạo, nghĩa là tử tế, công bằng, không gian lận. Đối với Phật tử, tinh thần thượng võ đã nằm sẵn trong năm giới, vì nếu không thượng võ, có nghĩa là đi trộm hào quang của đấu thủ khác, của đội tuyển khác, của quốc gia khác. Tuy nhiên, nếu giữ được thượng võ mà thiếu vắng từ bi, cũng không đúng Chánh pháp. Bởi vì từ bi do vì muôn dân mà làm, chứ không vì kiêu mạn.

Tất cả những cuộc tranh tài hiện nay đều cần tinh thần thượng võ. Tức là khi ra sức tranh tài, vẫn cố gắng giữ gìn sự tử tế, công bằng, một tinh thần mã thượng.

Tất cả các kỳ Thế Vận đều có một Lời Tuyên Thệ Thế Vận (The Olympic Oath). Không chỉ thuần túy để ngăn cản sự gian lận, nhưng cũng vì nhiều môn tranh tài trong Thế Vận có thể nguy hiểm, gây thương tích hay làm chết người như các môn đấu võ, đấu kiếm, bắn cung… Bất kỳ sự gian lận nào, ra ngoài nội quy  tranh tài, đều có thể nguy hiểm.

Trong lễ khai mạc Thế Vận, người đọc Lời Tuyên Thệ Thế Vận là người đại diện nước chủ nhà, sẽ cầm một góc lá cờ và đọc lên lời này.

Chữ “thượng võ” trong tiếng Việt khi dịch sang Tiếng Anh có thể là: chivalry (tinh thần mã thượng), knightliness (hào hiệp), sportsmanship (tinh thần thể thao), fair play (tranh tài công bằng)…

Lời Tuyên Thệ Thế Vận đầu tiên được tuyên đọc là năm 1920 trong Thế Vận Mùa Hè ở thành phố Antwerp (Bỉ quốc). Người tuyên đọc lúc đó là Victor Boin (vừa là kiếm sĩ, vừa là tuyển thủ môn bóng nước), với các lời này: “Chúng tôi thề. Chúng tôi sẽ tham dự Thế Vận trong tinh thần thượng võ, vì danh dự đất nước chúng tôi, và vì vinh quang thể thao.” (We swear. We will take part in the Olympic Games in a spirit of chivalry, for the honour of our country and for the glory of sport.)

Năm 1961, chữ “chúng tôi thề” sửa thành “chúng tôi hứa” và “danh dự đất nước chúng tôi” thay bằng “danh dự các đội của chúng tôi” nhằm xóa bỏ tinh thần quốc gia dân tộc trong Thế Vận.

Có một số chuyện thường được kể về tinh thần thượng võ trong Thế Vận.

Trường hợp Thế Vận Berlin năm 1936, với hai tuyển thủ Nhật Bản về môn nhảy sào: Shuhei Nishida và Sueo Oe.

Sau khi tuyển thủ Mỹ Earle Meadows thắng Huy chương vàng môn nhảy sào, hai tuyển thủ Nhật Bản Nishida và Oe phải tranh nhau Huy chương bạc. Cả hai đều nhảy cùng một độ cao, nhưng Huy chương bạc được trao cho Nishida vì ít lỗi hơn Oe. Như thế, Huy chương đồng trao cho Oe. Tuy nhiên, khi về lại quê nhà, hai anh Nishida và Oe cắt đôi huy chương của họ làm thêm hai mảnh, để ráp lại làm thành hai huy chương mới: nửa bạc, nửa đồng. Báo chí lúc đó gọi đó là "các huy chương tình bạn."

Một trường hợp khác cũng thường được kể về tinh thần thượng võ: nữ kiếm sĩ Judy Guinness trong Thế Vận Los Angeles 1932.

Guinness đại diện Anh quốc trong cuộc thi môn đấu kiếm đơn kình với Ellen Preis, nữ kiếm sĩ Áo quốc. Guinness thắng Huy chương vàng. Tuy nhiên, Guinness thông báo Ban giám khảo rằng họ bỏ sót hai điểm cho cô Preis vì không thấy mũi kiếm cô Preis chạm vào bộ võ phục của Guinness. Khi tính điểm đó vào, kiếm sĩ Preis được  Huy chương vàng, Guinness được Huy chương bạc. Cực kỳ hy hữu. Bởi vì, không mấy người muốn rời ngôi "Thiên hạ đệ nhất kiếm" chỉ vì muốn giữ sự trung thực.

Tới đây, chúng ta có thể hỏi: các nhà sư Việt Nam đã xem việc luyện võ, hay việc luyện tập các môn thể thao như thế nào?

Có thể thấy rằng, tất cả hành động của Phật tử, cho dù là xuất gia hay tại gia, đều phải từ lòng từ bi mà làm. Nếu giữ được thượng võ mà thiếu vắng từ bi, cũng không đúng Chánh pháp. Nói từ bi, là nói vì muôn dân mà làm, không phải vì tên tuổi cá nhân hay chỉ vì thuần túy tìm vui. Như thế, hạnh Bồ Tát có khi phải ra trận, chịu sát nghiệp… vì nếu sơ xuất, cứ xem Tây Tạng bị Trung Quốc xóa sổ mà biết lo.

Nhà vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo cả nước đẩy lùi các cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông, và rồi năm 1293, truyền ngôi cho thái tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên làm Thái thượng hoàng. Sau đó Trần Nhân Tông vào chùa, xuất gia, lấy hiệu Trúc Lâm đại sĩ, khai sáng Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam và tinh thần nhập thế.

Tâm từ bi của Trần Nhân Tông thể hiện ở nhiều trường hợp. Khi chiến thắng quân Nguyên xong, vua ra lệnh đốt tất cả những bằng chứng có thể kết tội những người đã từng đồng lõa với phương Bắc. Khi tang lễ cho thượng hoàng Thánh Tông năm 1290, Trần Nhân Tông nghe lời quan Đỗ Quốc Kế bằng cách dùng ngựa thay cho kiệu. Sách chép rằng Ngự sử đại phu Đỗ Quốc Kế khuyên vua Nhân Tông: "Phàm để tang không nên làm thương tổn người sống. Nay thiên tử đều dùng kiệu khiêng, thế là người sống bị tổn thương, xin hãy cưỡi ngựa" – và Nhân Tông nghe lời họ Đỗ. Để giúp dân khi đói nghèo, Trần Nhân Tông cũng phát chẩn, bỏ thuế đinh…

Trong sử Việt cũng kể về các nhà sư giỏi các môn thể thao. Thí dụ, như trong môn chèo thuyền, có Thiền sư Pháp Thuận. Thực tế, chèo thuyền phải là chuyên nghiệp. Không ai tập vài ngày mà đóng vai chèo thuyền cho vững vàng. Bên cạnh kỹ năng khéo léo chèo thuyền, cũng phải có sức khỏe trên trung bình.

Pháp Thuận (914-990) trụ trì ở Chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ải. Sư học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ. Năm 987, có người Tống là Lý Giác sang sứ, vua Lê Đại Hành sai Sư cải trang làm kẻ lái đò để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Lý Giác cao hứng ngâm chơi hai câu thơ. Sư Pháp Thuận đang là anh lái thuyền cầm chèo, ngâm tiếp hai câu nối vần. Sứ nhà Tống kinh ngạc.

Nơi đây, nói về kỹ năng chèo thuyền, chúng ta không rõ Sư Pháp Thuận có dư sức để thi chèo thuyền Thế Vận hay không, nhưng hiển nhiên là phải giỏi môn thể thao này vậy.

Có nhà sư Việt Nam cũng giỏi môn cử tạ, vác được nhiều tấn đồng đen. Đó là trường hợp Không Lộ Thiền Sư. Ngài có tên Lý Quốc Sư (1065 – 1141), được vua phong quốc sư tên hiệu Nguyễn Minh Không, được dân tôn vinh là ông tổ nghề đúc đồng. Sư giỏi y lý, có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân, nên được người Việt tôn sùng là đức thánh Nguyễn. Đạo Mẫu tôn vinh Sư là vị thánh trong tứ bất tử. Truyền thuyết kể rằng Sư từng thò tay vào vạc dầu đang sôi vớt hàng trăm chiếc kim chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông. Phải chăng đó cũng là môn võ mình đồng da sắt?

Theo truyền thuyết, Ngài Không Lộ từng chữa bệnh cho vua phương Bắc. Khi vua trả ơn, hỏi muốn lấy gì, Sư nói chỉ xin một ít đồng đen cho vào tay nải. Và thế là tất cả kho đồng của vua phương Bắc đều chui vào tay nải của ông trước sự kinh ngạc của triều đình. Ông lại thả nón tu lờ làm thuyền bơi về nước Nam. Về đến Thăng Long ông đúc thành chuông. Đó là ngoại sử… Thực tế, không thể có chuyện như thế, vì nếu như thế, Ngài Không Lộ đã phạm giới. Ông bà mình khi đưa vào huyền sử các chi tiết như thế, chỉ có ý cảnh giác đời sau phải coi chừng triều đình phương Bắc.

Nói vể luyện võ để hộ quốc an dân còn có Khâu Ni Công chúa, tên là Nàng A. Theo sách Danh tướng Việt Nam - Tập 4 của Nguyễn Khắc Thuần, do NXB Giáo Dục, ấn bản 2005, viết theo thần tích (sự tích chép lại để nơi đền thờ), cho biết đó nữ tướng này của Hai Bà Trưng nguyên là một ni cô, trích:

“Trong số các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng, có một nữ tướng rất đặc biệt, đó là Nàng A - vị nữ tướng vốn xuất thân là một nhà tu hành theo Phật giáo. Theo thần tích ở đền Nhật Chiêu (nay thuộc huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc) thì Nàng A vốn là một cô gái xinh đẹp và rất chịu thương chịu khó (theo tờ thần tích này, Nàng A cũng có khi được chép là Quách A).

Bấy giờ, bọn tay sai nhà Hậu Hán định bắt Nàng A dâng nạp cho quan đô hộ để lấy thưởng, Nàng A đành bỏ làng vào núi để tu, cũng là để tạm lánh bọn ác quỷ. Từ đó, Nàng A có đạo hiệu là Ni cô Khâu Ni. Nơi Ni cô Khâu Ni tu hành nay chính là chùa Huyền Cổ. Vào thời ấy, quân đô hộ thi nhau ức hiếp dân lành, chúng tàn ác chưa từng thấy, người người đều oán giận, đến cả bậc tu hành từ bi như Khâu Ni cũng không thể nào chịu đựng nổi. Khâu Ni liền bí mật tập hợp những người giàu lòng yêu nước và quyết tâm giết giặc để sẵn sàng chờ cơ hội vùng lên.

Được tin Hai Bà Trưng cũng đang ráo riết chuẩn bị lực lượng cho một cuộc khởi nghĩa lớn, Khâu Ni lập tức đem toàn bộ lực lượng của mình về ra mắt Hai Bà. Hai Bà Trưng rất vui mừng, liền phong cho Khâu Ni làm Tả tướng. Và chính Tả tướng Khâu Ni là một trong những vị tướng có công rất lớn trong trận đánh quyết định vào thành Luy Lâu (Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), khiến cho tướng giặc là Tô Định bị đại bại, phải vất bỏ ấn tín, cạo râu, cạo tóc mà tháo chạy về Trung Quốc. Nhờ công lao này, Nàng được Trưng Nữ Vương phong làm Khâu Ni Công chúa và cho được cai quản vùng đất nay tương ứng với Yên Lạc (Vĩnh Phúc).

Nhưng sau ngày đại thắng chưa được bao lâu thì Khâu Ni Công chúa đã lâm bệnh rồi qua đời. Để khắc ghi công trạng và ân đức của Khâu Ni Công chúa, nhân dân ở nhiều địa phương nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc đã lập đền thờ Bà.”(ngưng trích)

Có một nữ tướng khác của Hai Bà Trưng đã từng hai lần vào Chùa Tiên La: đó là Bát Nàn công chúa. Đạo Mẫu thờ bà Bát Nàn, nên có nhiều đền thờ và có nhiều thần tích viết khác nhau. Bát Nàn tên là Thục Nương, có chồng là một Lạc hầu. Năm Kỷ Hợi 39, khi Đặng Thi Sách (chồng Bà Trưng Trắc) bị giết ở Châu Diên thì chồng bà Thục Nương cũng bị giết ở Diên Hà. Khi đó, quân Tô Định vây chặt dinh trại, chồng bà bị hại, nửa đêm bà cầm song đao, mở đường máu chạy đến làng Tiên La, vào chùa ẩn thân. Năm 40, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, bà rời chùa, theo giúp, giữ một đạo quân tiên phong. Năm 41, quân phương Bắc lui. Hai Bà Trưng lên ngôi vua đóng đô tại Mê Linh – Vĩnh Phúc, bà cởi bỏ nhung trang trở về chùa làng Tiên La, lập trang ấp sinh sống. Năm 43, nhà Hán sai Phục Ba Mã Viện dẫn 20 vạn quân sang phục thù, bà dẫn thanh niên trong làng ra giúp nghĩa quân của Hai Bà Trưng. Thua trận, Hai Bà Trưng tuẫn tiết trên dòng sông Hát, trong khi Bát Nàn cùng tàn quân chạy về trú ngụ tại chùa Tiên La. Khi quân phương Bắc tới truy sát, vây chùa, bà rút gươm tự sát, không chịu để quân giặc làm nhục.

Trong cõi này, hiển nhiên là có quá nhiều điều bất như ý. Bất hạnh nhất là rơi vào chiến tranh. Bởi vì, nghiệp sát là nặng. Nhưng trên thế giới chúng ta, không bao nhiêu chỗ có hòa bình. Như với người sinh nơi vùng Trung Đông, không thể nào sống đời bình yên được. Trường hợp như thế, chỉ có Đạo Phật là phao cứu người tuyệt vời nhất, trong đó từ bi luôn luôn là một phần của chìa khóa giải thoát. Bổn Sanh Truyện có kể về một kiếp quá khứ của Đức Phật, khi chiếc tàu chở 500 thương gia lênh đênh ngoài biển, một tên cướp muốn giết toàn bộ các thương gia để cướp tàu hàng. Người thuyền trưởng Bồ Tát vì lòng từ bi, không muốn tên cướp lãnh nghiệp sát quá nặng, nên mới giết tên cướp để Ngài sẽ nhận nghiệp sát vì lòng từ bi. Đó là một lựa chọn khó khăn.

Đối với các môn thể thao, lựa chọn thực ra dễ dàng hơn. Nhưng trước hết, và sau hết, tinh thần thượng võ phải khởi xuất vì lòng từ bi. Bởi vì, từ bi cũng là một chiếc ghe để qua bờ bên kia.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/10/2010(Xem: 4595)
Giới chuyên môn Tây Phương dùng chữ APOCRYPHA – KINH ĐIỂN NGỤY TẠO để gọi văn học Phật giáo phát triển ở nhiều khu vực Á châu giả mạo những văn bản Phật giáo có gốc từ Ấn độ. Mớ bong bong của ngụy thư có nhiều nét chung, nhưng chúng không bao giờ thống nhất bằng cùng một kiểu mẫu (style) văn học hay cùng một nội dung.
13/10/2010(Xem: 5114)
Chiến tranh đi liền với sát sanh. Chiến tranh đồng nghĩa với tội ác. Sát sanh là nhân, chiến tranh là quả và ngược lại. Hai yếu tố này hỗ trợ cho nhau để tạo nên chia lìa, đau đớn, khủng hoảng, tan tóc, đau thương cho cuộc đời. Khi nào còn chiến tranh, nghĩa là con người còn phải gánh chịu đau khổ, giết hại, thù hằn, đấu tố. Chiến tranh sẽ không bao giờ chấm dứt nếu con người còn tâm địa giết hại thú vật không thương tiếc, giẫm lên mạng sống của muôn vật, không biết quý trọng mạng sống của đồng loại! Nhân trả lời một nghi vấn của một Phật tử: “Tổng thống Bush có phạm tội sát sanh hay không khi đem quân đi đánh Afghanistan hay không?” Người viết xin trình bày sơ bộ các cách phán đoán tội của một người phạm tội sát sanh cũng như các cấp độ của sát sanh và vài vấn đề liên hệ đến chiến tranh để bổ sung cho câu trả lời trên.
02/10/2010(Xem: 4674)
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ CHÚA GIÊSU Nguyên tác: LE DALAI LAMA PARLE DE JÉSUS Éditions Brepols, Paris. 1996 Người dịch : VĨNH AN nhà XUẤT BẢN: THIỆN TRI THỨC, 2003 Một Viễn Cảnh Phật Giáo Về Những Lời Dạy của Đức Giêsu
02/10/2010(Xem: 5096)
Trong bài tham luận ngắn này, người viết giới thiệu khái quát về truyền thống khất thực như một pháp tu trong Phật giáo, thông qua đó phân tích hiện tượng khất thực phi pháp của những kẻ ăn xin giả dạng người tu, làm hoen ố truyền thống tâm linh của Phật giáo. Bên cạnh đó, người viết xin đề xuất phương án ngăn chận tệ nạn này. Đồng thời, đề nghị giải pháp ngăn chận tình trạng “khách không mời mà đến” làm mất đi ý nghĩa thiêng liêng của các ngày kỷ niệm tổ sư khai sáng các chùa và các lễ cúng dường trai tăng nói chung.
30/09/2010(Xem: 5978)
Hân hạnh gửi đến quý vị một vài ý nghĩa phiến diện về những điều đè nặng tâm trí tôi trong suốt thời gian ở tù. Nhưng điều trước tiên tôi muốn bày tỏ ở đây là sự tri ân của tôi đối với đồng bào hải ngoại, với sự cộng tác của quốc tế, đã can thiệp một cách có hiệu quả khiến cho bản án tử hình dành cho tôi trở thành bản cáo trạng dành cho những người tự cho có quyền xét xử tôi và phán xét những người đã hành động theo lương tâm.
08/09/2010(Xem: 4377)
Cánh cửa của thế kỷ 20 sắp khép lại, tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn, loài người trên hành tinh đã trở thành một cộng đồng lớn, các liên minh về chính trị và quân sự đã tạo ra những khối đa quốc gia, làn sóng của thương mại và công nghiệp thế giới đã cho ra nền kinh tế toàn cầu, những phương tiện thông tin của thế giới đã loại bỏ những chướng ngại về ngôn ngữ và chủng tộc...
06/09/2010(Xem: 3884)
Hiện tượng này do sư cô Thích Chiếu Huệ khởi xướng và ngày càng lan rộng, nhận định về hiện tượng này và tìm hiểu nguyên nhân mà nó phát sinh cần có cái nhìn toàn diện về xã hội và Phật giáo Đài Loan. 1) Xã hội phát triển theo xu hướng nam nữ bình quyền. Đài Loan đã trở thành một trong bốn con rồng Châu Á và đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của những tư tưởng phát triển từ phương tây, do đó trong xã hội ngày nay quyền bình đẳng luôn được phụ nữ Đài Loan vận động và tranh đấu. Phong trào nữ quyền ở Đài Loan đã đạt được những thành tựu nhất định. Nữ giới dần có địa vị cao trong mọi lĩnh vực của xã hội. Quan điểm "nam nữ bình quyền" đã được tuyệt đại đa số quần chúng ủng hộ và nó cũng tác động vào sau cánh cổng chùa đến tầng lớp ni giới của Đài Loan.
04/09/2010(Xem: 9802)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 3802)
Vì họ nghĩ rằng, Bát kỉnh pháp là điều khoản bất công với Ni giới, nếu chấp nhận sự có mặt của Bát kỉnh pháp trong hệ thống kinh luật, tức là chấp nhận đức Phật không có từ bi, thiếu tuệ giác và chúng ta tự đào thải mình. Rồi qua một số lý luận không có cơ sở khoa học vững chắc, họ suy đoán rằng các điều khoản trong Bát kỉnh pháp được hình thành là do sự mâu thuẫn giữa Tăng Ni trong một giai đoạn lịch sử nào đó, nên các bậc tiền nhân đã áp đặt ra để đè đầu cỡi cổ mấy cô Ni, chứ điều đó không phải do Phật nói. Cho nên, để thích hợp với xã hội toàn cầu hóa ngày nay, chúng ta phải mạnh dạng xóa bỏ điều này.
30/08/2010(Xem: 3328)
Đất nước hiện nay cần phải phát triển kinh tế để dân giàu nước mạnh. Muốn vậy, người dân Việt phải tăng gia sản xuất tất cả các ngành nghề, cần phải cạnh tranh trong tất cả các lãnh vực kinh tế. Chăn nuôi gia súc, nuôi cá, nuôi tôm là các ngành không thể thiếu để cung ứng thị trường nội địa và xuất khẩu để thu ngoại tệ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567