Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhân tướng và nhân mạng

19/07/201205:34(Xem: 5207)
Nhân tướng và nhân mạng
NHÂN TƯỚNG VÀ NHÂN MẠNG
Nhụy Nguyên

Chính nghiệp lực là nguyên nhân của sự phân chia các loài, các loại người và loại vật. Không nên so sánh con người và con vật. Tuy nhiên một điều dễ nhận thấy, là rất nhiều con vật được sống sạch sẽ và tươm tất hơn một số con người, lại cũng có số người sống không bằng kiếp vật. Do vậy tình thương của Đức Phật như dòng nước tràn về miền sa mạc, những chỗ thấp có thể ví như con người nước thấm trước hết, sau đó [nước từ bi] tràn lên và thấm nhuần hết thảy những chỗ nhô cao hơn (được ví như cõi vật và các loài khác).

Biết quý mạng sống của con vật, cũng là một cách tích đức. Hoặc giả chúng ta có thể kết thúc mạng con heo bằng một loại thuốc ngủ thay vì chọc tiết dí điện... Hãy một lần chứng kiến cảnh các con vật bị lôi vào lò mổ đủ biết chúng không hề có ý cúng dường thân xác mình cho con người. Ngược lại, nếu ai sống bất chấp Đạo thì dễ rơi vào tình cảnh vật đội lốt người. Khó thể tin có kẻ giết người còn móc ruột lôi gan, chặt khúc; người chết rồi còn quật mồ phơi xác...

Trong sự quay vòng của muôn trùng kiếp, con người hẳn sẽ ít nhiều bị “lai” về dung mạo và tâm tính. Biết thương yêu loài vật (sau khi đã thương yêu con người), người ấy có nhiều cơ hội tiếp tục được thân người ở kiếp sau, có nhiều cơ hội giải thoát hơn. Ngườikhông tuthử mang theo số người thân nhất như vợ con chẳng hạn (để chống lại sự cô đơn), rồi kéo nhau vào rừng sống thử khoảng một tháng, không mang theo kem đánh răng, son phấn, xà phòng, giấy vệ sinh… sẽ nhận ra con thú “của mình”. Vô vàn sản phẩm công nghiệp người ta sử dụng hàng ngày hàng giờ đó, chính là bình phong che đậy bản ngã, che đậy thiện căn; cũng là những thứ con người “giấu giếm” phiền não, “gia hạn” khổ đau.

Bậc Giác giả, các vị đã mở được thiên nhãn, huệ nhãn, dĩ nhiên họ nhìn thấy “con thú” trong mỗi chúng sinh. Chúng sinh với nhục/phàm nhãn, nếu ai thấm đạo cũng có thể nhìn thấy khuôn mặt thú ẩn hiện trên mặt người…Thử chụp lại những khuôn mặt người trong cơn giận giữ, trong cơn say máu rồi so sánh với chân dung các loài thú, sẽ có sự tương đồng… thú vị. Một cô gái đẹp với tâm địa đen tối, sống trong nhung lụa lại coi khinh kẻ khác; coi khinh động vật bậc thấp và luôn muốn thỏa mãn khẩu vị bằng nỗi đau của chúng, khuôn mặt đẹp ấy theo thời gian sẽ hao sinh khí, vô hồn.Một tên sát nhân, hay ít nhất là đồ tể, lần đầu tiên vô tình bắt gặp sao rợn cả mình! Một đạo sư, một người sống với tâm từ vô lượng, khuôn mặt tuy không đẹp sao vẫn hòa ái gần gũi biết bao dẫu lần đầu tiên ta tiếp kiến. Quanh mỗi người đều có trường năng lượng sạch-nhơ; những gì khoa học chưa sáng chế ra loại kính nhìn thấy đức & nghiệp ấy thì không nên phủ nhận.

Không nên hiểu sinh lão bệnh tử một cách thô thiển. Giai đoạn bệnh đến tử là một hố thẳm không đáy. Rất nhiều người không thể chết, kể cả việc muốn tự tử. Một ông già đang khỏe mạnh, cú ngã khiến bệnh viện bó tay luôn nên bị liệt, chỉ nhúc nhích được cái đầu nằm đến thối thịt. Thương con thương cháu ứa nước mắt, muốn dứt mệnh khỏi phiền hà đến ai cũng chịu nốt bởi đến răng cũng chẳng còn để cắn lưỡn. Vung tay quá trán ắt chạm đến thánh thần. Có trường hợp khác bị xơ gan nằm gần một năm, yếu dần yếu dần. Những lúc đau quá anh kêu trời, hỏi tại sao từ nhỏ tới lớn không làm hại đến ai mà giờ nghiệp nặng như vầy. Người em vợ đã khai thị cho anh rồi mua tặng một đầu đĩa kèm VCD các sư thầy giảng pháp. Anh nghe hai ngày và gật đầu thanh thản, bảo bây giờ mới hiểu đến mức độ tinh vi của nghiệp... Từ hôm đó anh bắt đầu lắng nghe để làm hành trang cho cuộc hành trình dài sau cái chết.

Ấy, dẫu sao cũng là trường hợp muộn quay đầu về bờ. Liệu chúng ta có thể gia hạn cái chết. Có thể có. Tôi quen một người hơn năm trước đã linh cảm vận mệnh của mình. Đến đầu năm nay một hôm đau đớn dữ dội; gọi cả nhà lên ngồi quanh trăn trối. Người nhà tính đưa đi cấp cứu, anh ta nói để con đi, đây là nghiệp đến đòi mạng, phải trả. Nói được vậy chứng tỏ người này có căn tính. Anh trai liền gọi điện tới vị sư quen biết, rồi đưa điện thoại cho em nghe. Sư khuyên, nếu một người tham sống thì có lên viện cũng chỉ là sự “gia hạn” thôi, không chừng kiếp kế tiếp bị lôi xuống Tam ác đạo. Nhưng con hiểu đạo thì thầy khuyên từ nay quyết bỏ đường trần bước lên đường đạo, và hãy thành tâm niệm “A Di Đà Phật”. Thân này xin giữ lại để trả nghiệp. Nếu có niềm tin tuyệt đối về con đường phía trước, con cứ để gia đình đưa lên viện giữ lại thân, dùng thân đó làm việc thiện, hầu trả hết nghiệp.

Bây giờ anh ta ăn chay trường, chuyên tâm học đạo, tâm thế luôn vui tươi sáng sủa. Hiện tượng này không hề hi hữu, ai cũng có thể làm được nếu quay một trăm tám mươi độ. Tại sao? Khi nghiệp đến đòi, ví như ta nợ (hoặc người thân của ta nợ từ lúc nào ta không hay), nhưng cái chính, nghiệp nạn đến thì chắc chắn đó là nợ. Nợ nhỏ thì nạn nhỏ, nợ lớn thì nạn lớn. Người ta đến đòi mạng, ta xin với Phật cho được giữ lại mạng này để làm thiện trả nghiệp. Đây là thiện chí, Phật mười phương cảm ứng, sẽ gia hộ. “Phật tính nhất xuất, chấn động thập phương thế giới”. Nhưng giữ được mạng rồi, khỏe mạnh rồi anh lại lấy thân hưởng thụ, không ăn chay tu tập, vẫn tạo nghiệp… Hậu quả như thế nào chắc không cần bàn.

nhantuongvanhanmangGặp nạn ai chả vác chân lên đầu mà chạy, ai kêu chi dạ nấy… Phổ biến nhất vẫn là cúng sao giải hạn. Nhiều người không học, họ cũng nhận thức được điều vô lý: sao lại cắt cổ gà, chọc tiết lợn để cầu xin cho sự bình an của bản thân?! Cũng như nếu như trong một đám tang cúng đồ mặn, giết mổ ngay ở nhà lại mời Thầy về độ siêu. Bất đắc dĩ phải ở lại, thiết nghĩ các Thầy chỉ an ủi, siêu độ cho những con vật bị khổ chủ giết, chứ chắc gì đã đến lượt vong linh.

Nếu như cúng bông ba hoa quả, gọi chung là cúng thánh, ấy là tấm lòng thành, rất nên. Còn như giết heo mổ gà cúng giải hạn, đó tương đương với tích thêm lượng nghiệp lớn. Cậy nhiều tiền bạc thả cửa giết mổ cúng quảy xin xỏ thì quá lắm chỉ mời được đám yêu ma ngạ quỷ. Chúng vẫn có thể dời nghiệp, nhưng nạn ấy sẽ nặng hơn những lần sau.Lúc bệnh mà tin theo những thuyết họa phước vu vơ của bọn tà ma ngoại đạo, yêu nghiệt trong đời, sanh lòng rúng sợ không còn tự chủ đối với sự chơn chánh, đi bói khoa để tìm hiểu mối họa rồi giết hại loài vật để tấu với thần minh, vái van cùng vọng lượng để cầu xin ban phước, mong được sống lâu, nhưng rốt cuộc không thể nào được. Bởi si mê lầm lạc, tin theo tà kiến điên đảo nên bị hoạnh tử, đọa vào địa ngục đời đời không ra khỏi(Kinh Dược Sư).

Nghiệp nạn, thay vì dồn đến một cục lớn, với sự thành tâm sám hối, phát tâm phóng sanh và hành thiện nghiệp một cách ráo riết, sẽ được chia ra tiêu trừ. Thường một lễ cúng tốn rất nhiều tiền. Thiết nghĩ chỉ nên trích ra khoảng 10% phần trăm của lễ lượt đó hương hoa cúng thánh. 90% còn lại, trích ra khoảng ít nhất 30% làm việc thiện (giúp đỡ người nghèo, phóng sanh…). Như vậy ai cũng tiết kiệm được 60% tiền lễ trong lúc còn tích được rất nhiều đức. Bất cứ lúc nào ta tiêu xài, hễ ý nghĩ tiết kiệm nổi lên thì nên trích một phần làm thiện. Suốt đời như vậy, cộng với sự tu tập đúng hướng, ai chẳng đạt được thành tựu lớn.

Một người suốt đời không phương hại đến ai, nhưng không hề biết đến Phật pháp, nghĩa là vẫn giết chóc, vẫn một cuộc sống quá sung túc, vẫn chỉ biết vun vén hưởng thụ trong gia đình của mình; nếu đa phần những người như vậy chết đi đều được tái sinh làm người, những tưởng không cần phải Tu. Giá ai cũng biết có được thân người vô cùng khó như con rùa mù dưới đáy đại dương một trăm năm trồi lên một lần mà vô tình tròng cái vòng trôi trên mặt biển; nếu ai cũng tin rằng con người cũng phải “khoác áo” súc sinh nếu không tránh việc bất thiện; nếu ai cũng biết nghe lời Phật, thì trái đất này đã không tổn thọ ghê gớm khiến nguy hại đến sự tồn vong của loài người.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2011(Xem: 7453)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4727)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 6302)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 6372)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5625)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4920)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 5100)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4698)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 6264)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
24/02/2011(Xem: 7994)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]