Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhất Thần Giáo và Chủ Nghĩa Mao Dưới Mầu Sắc Phật Giáo

23/02/201205:03(Xem: 4052)
Nhất Thần Giáo và Chủ Nghĩa Mao Dưới Mầu Sắc Phật Giáo

NHẤT THẦN GIÁO và CHỦ NGHĨA MAO
DƯỚI MẦU SẮC PHẬT GIÁO
Minh Thạnh

duytue_856055302Sau 2 bài báo về quyển sách ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm” của tác giả Duy Tuệ, số lượng những ý kiến trên mạng bênh vực, đề cao tác giả quyển sách cho thấy tổ chức “Đại gia đình Minh Triết” do tác giả Duy Tuệ, người tự phong “đạo sư”, thành lập và chỉ đạo, điều hành đã tập trung khá đông đảo người tham gia tổ chức, đặc biệt là ở Việt Nam.

So với những trường hợp xuyên tạc và công kích Phật giáo khác mà các trang mạng Phật giáo Việt Nam đã đề cập, thì đây là trường hợp đặc biệt hơn cả, với mức độ công kích Phật giáo có cường độ mạnh chưa từng có, và các ý kiến phản ứng dưới dạng đề cao người đứng đầu tổ chức cũng mạnh và cực đoan hiếm thấy!

Tại sao người tham gia tổ chức của ông Duy Tuệ lên đến mức có những biểu hiện như thế? Phải chăng tác giả Duy Tuệ có nói lên được điều gì đúng, hay mới lạ? Có như thế mới thu hút được nhiều người vào tổ chức?

Nhất là, phải có cái mới thì mới có thể thu hút được người theo, gia nhập tổ chức.Vậy cái mới mà tác giả Duy Tuệ đã nói và viết là gì?

Những yếu tố ban đầu và nổi bật mà chúng ta có thể ghi nhận qua các bài nói và viết của ông, nhất là trong sách ““Ta là ai? Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm” là công thức: Nhất thần giáo + Chủ nghĩa Mao + màu sắc Phật giáo “đội lốt”.

TẠO HÓA!

Trong các tác phẩm và bài nói của mình, nhất là quyển ““Ta là ai” thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, tác giả Duy Tuệ, nhìn chung, không nói về thượng đế, về chúa trời, hay về Ala với sự tôn kính, nhưng có một điều đáng lưu ý, là lại xuất hiện khá phổ biến khái niệm “tạo hóa”, như là đấng tạo ra con người và vũ trụ.

Khái niệm “tạo hóa”, sống theo “tạo hóa”, thuận với “tạo hóa”, khai thác tiềm năng mà “tạo hóa” đã ban phát, đón nhận những cơ hội tạo hóa…, là những điều thường gặp trong những bài nói, bài viết của tác giả Duy Tuệ

Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng “tạo hóa” trong các tác phẩm của tác giả Duy Tuệ là một đấng tạo hóa phiếm chỉ, không xác định. Hiểu chung chung là trời, tạo vật chủ cũng được, mà hiểu cụ thể là chúa, là Ala… cũng đều được?!

Khái niệm “tạo hóa” này có tác dụng đưa những người đã tham gia vào tổ chức “Đại gia đình Minh Triết” hay chỉ mới đọc sách của tác giả Duy Tuệ tiến đến gần hơn với những tôn giáo nhất thần, mà ở Việt Nam là Ca tô La Mã, Tin Lành… Việc tạo môi trường tiếp cận này, nói theo từ ngữ cải đạo, là tạo nên “cánh đồng truyền giáo”.

Việc công nhận “tạo hóa” là một điều kiện tiên quyết, bắt buộc, nếu muốn thực hành những chỉ dẫn trong các tác phẩm nói và viết của tác giả Duy Tuệ. Như vậy, ở đây, nhất thần giáo chỉ mới có hai phần: nhận thức và kỹ năng thực hành. Nó khuyết cái nội dung ở giữa vẫn thường thấy, là kiến thức tôn giáo cụ thể. Nếu có yếu tố này, tức là đã thực hiện xong việc cải đạo.

CHỦ NGHĨA MAO!

Cực đoan của việc phủ nhận truyền thống biểu hiện trong thế kỷ XX ở chủ nghĩa Mao

Nói chủ nghĩa Mao là nói theo cách nói thông thường, chứ thực ra, đó là chủ nghĩa Giang Thanh, hay chủ nghĩa “Bè lũ bốn tên” (1), những người đã trực tiếp phát động và chỉ đạo cuộc Đại Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc trong thời gian 10 năm (1966-1976), mà hiện nay các bộ sử Trung Quốc gọi là “Mười năm động loạn”.

Động loạn đã đi vào tác phẩm của tác giả Duy Tuệ ở chỗ phủ nhận những khuôn mẫu được để lại từ xưa. Tuy nhiên, mũi dùi của động loạn, trong các tác phẩm mà chúng ta đang bàn luận, tập trung vào Phật giáo, với việc đả phá các chuẩn mực khuôn mẫu là Phật, Pháp, Tăng. Động loạn xuyên suốt bài nói và viết của tác giả Duy Tuệ, có chỗ được che giấu, ẩn lậu, có chỗ bộc lộ, cao trào như chúng ta đã thấy qua các trích dẫn từ tác phẩm cụ thể ““Ta là ai” Thông tỏ sự hiểu lầm từ hàng ngàn năm”. Cụm từ “Thông tỏ sự hiểu lầm từ hàng ngàn năm” cho thấy rõ tư tưởng “động loạn”, đánh đổ truyền thống, mà ở đây được cho là “sự hiểu lầm”.

Đánh đổ truyền thống ở chủ nghĩa Mao bộc lộ cụ thể và cao trào bằng Đại Cách mạng Văn hóa, trong đó, các nhà tu hành buộc phải hoàn tục, cải tạo, các cơ sở thờ tự, kiến trúc truyền thống ở Trung Quốc đều bị hủy hoại ở mức độ khác nhau (chỉ trừ Cố cung khi đó đã trở thành bảo tàng).

Điều rất đáng lo ngại là có phải, tư duy “động loạn” này, hiện nay, lại bộc lộ trong cái trước tác mới phát hành, phổ biến gần đây tại Việt Nam mà chúng ta bàn luận? Tác giả những tác phẩm đó có thể truyền bá quan điểm nhất thần giáo, đề xướng, chỉ dẫn những ứng dụng của nó, mà cụ thể là khai thác, phát triển những tiềm năng mà “tạo hóa” đã ban cho con người. Điều đó cũng dễ chia sẻ.

Thế nhưng, hà cớ gì phải “động loạn” với các “khuôn mẫu” truyền thống, mà tập trung chủ yếu vào Phật giáo. Đây là câu hỏi lớn nhất và cũng là điều nguy hiểm nhất đối với Phật giáo và đối với xã hội. Cái sức hấp dẫn một thời của chủ nghĩa Mao là sự động loạn, mà cao điểm là kích thích, khơi dậy bản năng bạo động số đông nhằm vào truyền thống, mà đỉnh cao ở Trung Quốc là xu thế “phê phán Khổng Tử”

Nay, nếu một “đạo” nào đó mới phát minh ở Việt Nam lại khởi nguyên từ tư duy này, lấy sự động loạn, đạp đổ truyền thống làm yếu tố hấp dẫn, thu hút quần chúng, thì quả là cực kỳ nguy hiểm.

Đã có sự động loạn theo kiểu Mao-ít trên những trang giấy tiếng Việt nói về lẽ “đạo” từ ngòi bút “đạo sư”, còn thơm mùi mực in mới, và được một số người đề cao trên mạng.

Chúng ta có thể dễ dàng chia sẻ điều này, đạo đức rõ ràng không thể được xây dựng trên sự động loạn. Một cuốn sách đạo, mà đọc mươi trang, là thấy tư duy đạp đổ truyền thống đạo đức theo kiểu chủ nghĩa Mao, liệu đưa bạn đọc hâm mộ đó đến đâu? Chúng ta cần tỉnh táo vì một lẽ, một “hiền giả” không thể là một vệ binh Đại Cách mạng Văn hóa, hết sức hậm hực, cay cú đến mức cuồng điên với truyền thống.

MÀU SẮC ĐẠO PHẬT

Đối tượng nhằm vào của tư duy nhất thần giáo và chủ nghĩa Mao mà chúng ta đang bàn luận là những Phật tử, thậm chí, là tu sĩ Phật giáo. Vì vậy, cái mới lạ với chừng ấy chưa đủ. Nó quá đắng, quá chát, quá nóng, quá, quá xốc… để người ta đón nhận. Cần phải làm mềm nó, làm ngọt nó, là dịu nó, làm cho nó trở nên quen thuộc. Vì thế, Phật giáo, đối tượng đả kích chính, lại được dùng đến với màu sắc bên ngoài.

Ở đây chúng tôi muốn nói đến những từ ngữ như “Pháp âm”, “đạo”, “Phật tâm”, “Phật tâm danh”, “tu tập”, “thiền”, “hiền giả”,”duy tuệ thị nghiệp”… và rất nhiều từ ngữ khác đại loại như vậy. Nếu không tìm hiểu kỹ, một sự lầm lẫn, ngộ nhận có thể xảy ra, rằng đây cũng là Phật giáo.

Sau khi tạo nên tâm lý Phật giáo bằng màu sắc Phật giáo của chiếc áo từ ngữ, tạo sự dễ dàng để tiếp cận, thì ngay sau đó, là đính chính không phải Phật giáo, để “thông tỏ sự hiểu lầm”. Đây là đoạn cuối của công thức. Nếu không có nó, những yếu tố nhất thần giáo và Mao-ít động loạn sẽ rớt lại một bên đường, với sự dè dặt và nghi ngại của người đọc.

Bài này cũng nằm trong loạt bài phê bình sách, cụ thể là tác phẩm, có thể tạm coi là tác phẩm “triết học” của tác giả Duy Tuệ. Những vấn đề của tác phẩm tương tự cùng tác giả không dừng lại ở đây. Mong bạn đọc chúng ta cùng bàn bạc, thảo luận từ điểm nhìn người đọc.

(1) Giang Thanh, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều. Bốn người này, sau khi Mao Trạch Đông chết, đã bị bắt, bị truy tố, bị xử tù giam về những tội trạng đã gây ra trong thời Đại Cách Mạng Văn hóa.

Minh Thạnh
(Phật Tử Việt Nam)

Bài viết liên quan đến chủ đề:
CÙNG TÌM HIỂU CÁI GÌ ĐẰNG SAU HIỆN TƯỢNG NÀY? - Minh Thạnh
CÙNG TÌM HIỂU CÁI GÌ ĐẰNG SAU HIỆN TƯỢNG NÀY: CÔNG KÍCH PHẬT GIÁO ĐỂ LÀM GÌ? - Minh Thạnh
ÔNG DUY TUỆ PHỈ BÁNG TAM BẢO PHẬT, PHÁP VÀ TĂNG NHƯ THẾ NÀO?GS001


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/10/2010(Xem: 4596)
Giới chuyên môn Tây Phương dùng chữ APOCRYPHA – KINH ĐIỂN NGỤY TẠO để gọi văn học Phật giáo phát triển ở nhiều khu vực Á châu giả mạo những văn bản Phật giáo có gốc từ Ấn độ. Mớ bong bong của ngụy thư có nhiều nét chung, nhưng chúng không bao giờ thống nhất bằng cùng một kiểu mẫu (style) văn học hay cùng một nội dung.
13/10/2010(Xem: 5115)
Chiến tranh đi liền với sát sanh. Chiến tranh đồng nghĩa với tội ác. Sát sanh là nhân, chiến tranh là quả và ngược lại. Hai yếu tố này hỗ trợ cho nhau để tạo nên chia lìa, đau đớn, khủng hoảng, tan tóc, đau thương cho cuộc đời. Khi nào còn chiến tranh, nghĩa là con người còn phải gánh chịu đau khổ, giết hại, thù hằn, đấu tố. Chiến tranh sẽ không bao giờ chấm dứt nếu con người còn tâm địa giết hại thú vật không thương tiếc, giẫm lên mạng sống của muôn vật, không biết quý trọng mạng sống của đồng loại! Nhân trả lời một nghi vấn của một Phật tử: “Tổng thống Bush có phạm tội sát sanh hay không khi đem quân đi đánh Afghanistan hay không?” Người viết xin trình bày sơ bộ các cách phán đoán tội của một người phạm tội sát sanh cũng như các cấp độ của sát sanh và vài vấn đề liên hệ đến chiến tranh để bổ sung cho câu trả lời trên.
02/10/2010(Xem: 4676)
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ CHÚA GIÊSU Nguyên tác: LE DALAI LAMA PARLE DE JÉSUS Éditions Brepols, Paris. 1996 Người dịch : VĨNH AN nhà XUẤT BẢN: THIỆN TRI THỨC, 2003 Một Viễn Cảnh Phật Giáo Về Những Lời Dạy của Đức Giêsu
02/10/2010(Xem: 5098)
Trong bài tham luận ngắn này, người viết giới thiệu khái quát về truyền thống khất thực như một pháp tu trong Phật giáo, thông qua đó phân tích hiện tượng khất thực phi pháp của những kẻ ăn xin giả dạng người tu, làm hoen ố truyền thống tâm linh của Phật giáo. Bên cạnh đó, người viết xin đề xuất phương án ngăn chận tệ nạn này. Đồng thời, đề nghị giải pháp ngăn chận tình trạng “khách không mời mà đến” làm mất đi ý nghĩa thiêng liêng của các ngày kỷ niệm tổ sư khai sáng các chùa và các lễ cúng dường trai tăng nói chung.
30/09/2010(Xem: 5979)
Hân hạnh gửi đến quý vị một vài ý nghĩa phiến diện về những điều đè nặng tâm trí tôi trong suốt thời gian ở tù. Nhưng điều trước tiên tôi muốn bày tỏ ở đây là sự tri ân của tôi đối với đồng bào hải ngoại, với sự cộng tác của quốc tế, đã can thiệp một cách có hiệu quả khiến cho bản án tử hình dành cho tôi trở thành bản cáo trạng dành cho những người tự cho có quyền xét xử tôi và phán xét những người đã hành động theo lương tâm.
08/09/2010(Xem: 4378)
Cánh cửa của thế kỷ 20 sắp khép lại, tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn, loài người trên hành tinh đã trở thành một cộng đồng lớn, các liên minh về chính trị và quân sự đã tạo ra những khối đa quốc gia, làn sóng của thương mại và công nghiệp thế giới đã cho ra nền kinh tế toàn cầu, những phương tiện thông tin của thế giới đã loại bỏ những chướng ngại về ngôn ngữ và chủng tộc...
06/09/2010(Xem: 3892)
Hiện tượng này do sư cô Thích Chiếu Huệ khởi xướng và ngày càng lan rộng, nhận định về hiện tượng này và tìm hiểu nguyên nhân mà nó phát sinh cần có cái nhìn toàn diện về xã hội và Phật giáo Đài Loan. 1) Xã hội phát triển theo xu hướng nam nữ bình quyền. Đài Loan đã trở thành một trong bốn con rồng Châu Á và đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của những tư tưởng phát triển từ phương tây, do đó trong xã hội ngày nay quyền bình đẳng luôn được phụ nữ Đài Loan vận động và tranh đấu. Phong trào nữ quyền ở Đài Loan đã đạt được những thành tựu nhất định. Nữ giới dần có địa vị cao trong mọi lĩnh vực của xã hội. Quan điểm "nam nữ bình quyền" đã được tuyệt đại đa số quần chúng ủng hộ và nó cũng tác động vào sau cánh cổng chùa đến tầng lớp ni giới của Đài Loan.
04/09/2010(Xem: 9805)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 3802)
Vì họ nghĩ rằng, Bát kỉnh pháp là điều khoản bất công với Ni giới, nếu chấp nhận sự có mặt của Bát kỉnh pháp trong hệ thống kinh luật, tức là chấp nhận đức Phật không có từ bi, thiếu tuệ giác và chúng ta tự đào thải mình. Rồi qua một số lý luận không có cơ sở khoa học vững chắc, họ suy đoán rằng các điều khoản trong Bát kỉnh pháp được hình thành là do sự mâu thuẫn giữa Tăng Ni trong một giai đoạn lịch sử nào đó, nên các bậc tiền nhân đã áp đặt ra để đè đầu cỡi cổ mấy cô Ni, chứ điều đó không phải do Phật nói. Cho nên, để thích hợp với xã hội toàn cầu hóa ngày nay, chúng ta phải mạnh dạng xóa bỏ điều này.
30/08/2010(Xem: 3328)
Đất nước hiện nay cần phải phát triển kinh tế để dân giàu nước mạnh. Muốn vậy, người dân Việt phải tăng gia sản xuất tất cả các ngành nghề, cần phải cạnh tranh trong tất cả các lãnh vực kinh tế. Chăn nuôi gia súc, nuôi cá, nuôi tôm là các ngành không thể thiếu để cung ứng thị trường nội địa và xuất khẩu để thu ngoại tệ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567