Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thượng Võ Và Từ Bi

21/06/201819:57(Xem: 4975)
Thượng Võ Và Từ Bi
vua tran nhan tong

Thượng Võ Và Từ Bi

Nguyên Giác

 

Thượng võ, có nhiều nghĩa. Trong danh từ, nghĩa đơn giản là đề cao, ưa thích võ thuật. Nhưng tĩnh từ, có nghĩa là tâm hồn cao thượng của người đã sống được võ đạo, nghĩa là tử tế, công bằng, không gian lận. Đối với Phật tử, tinh thần thượng võ đã nằm sẵn trong năm giới, vì nếu không thượng võ, có nghĩa là đi trộm hào quang của đấu thủ khác, của đội tuyển khác, của quốc gia khác. Tuy nhiên, nếu giữ được thượng võ mà thiếu vắng từ bi, cũng không đúng Chánh pháp. Bởi vì từ bi do vì muôn dân mà làm, chứ không vì kiêu mạn.

Tất cả những cuộc tranh tài hiện nay đều cần tinh thần thượng võ. Tức là khi ra sức tranh tài, vẫn cố gắng giữ gìn sự tử tế, công bằng, một tinh thần mã thượng.

Tất cả các kỳ Thế Vận đều có một Lời Tuyên Thệ Thế Vận (The Olympic Oath). Không chỉ thuần túy để ngăn cản sự gian lận, nhưng cũng vì nhiều môn tranh tài trong Thế Vận có thể nguy hiểm, gây thương tích hay làm chết người như các môn đấu võ, đấu kiếm, bắn cung… Bất kỳ sự gian lận nào, ra ngoài nội quy  tranh tài, đều có thể nguy hiểm.

Trong lễ khai mạc Thế Vận, người đọc Lời Tuyên Thệ Thế Vận là người đại diện nước chủ nhà, sẽ cầm một góc lá cờ và đọc lên lời này.

Chữ “thượng võ” trong tiếng Việt khi dịch sang Tiếng Anh có thể là: chivalry (tinh thần mã thượng), knightliness (hào hiệp), sportsmanship (tinh thần thể thao), fair play (tranh tài công bằng)…

Lời Tuyên Thệ Thế Vận đầu tiên được tuyên đọc là năm 1920 trong Thế Vận Mùa Hè ở thành phố Antwerp (Bỉ quốc). Người tuyên đọc lúc đó là Victor Boin (vừa là kiếm sĩ, vừa là tuyển thủ môn bóng nước), với các lời này: “Chúng tôi thề. Chúng tôi sẽ tham dự Thế Vận trong tinh thần thượng võ, vì danh dự đất nước chúng tôi, và vì vinh quang thể thao.” (We swear. We will take part in the Olympic Games in a spirit of chivalry, for the honour of our country and for the glory of sport.)

Năm 1961, chữ “chúng tôi thề” sửa thành “chúng tôi hứa” và “danh dự đất nước chúng tôi” thay bằng “danh dự các đội của chúng tôi” nhằm xóa bỏ tinh thần quốc gia dân tộc trong Thế Vận.

Có một số chuyện thường được kể về tinh thần thượng võ trong Thế Vận.

Trường hợp Thế Vận Berlin năm 1936, với hai tuyển thủ Nhật Bản về môn nhảy sào: Shuhei Nishida và Sueo Oe.

Sau khi tuyển thủ Mỹ Earle Meadows thắng Huy chương vàng môn nhảy sào, hai tuyển thủ Nhật Bản Nishida và Oe phải tranh nhau Huy chương bạc. Cả hai đều nhảy cùng một độ cao, nhưng Huy chương bạc được trao cho Nishida vì ít lỗi hơn Oe. Như thế, Huy chương đồng trao cho Oe. Tuy nhiên, khi về lại quê nhà, hai anh Nishida và Oe cắt đôi huy chương của họ làm thêm hai mảnh, để ráp lại làm thành hai huy chương mới: nửa bạc, nửa đồng. Báo chí lúc đó gọi đó là "các huy chương tình bạn."

Một trường hợp khác cũng thường được kể về tinh thần thượng võ: nữ kiếm sĩ Judy Guinness trong Thế Vận Los Angeles 1932.

Guinness đại diện Anh quốc trong cuộc thi môn đấu kiếm đơn kình với Ellen Preis, nữ kiếm sĩ Áo quốc. Guinness thắng Huy chương vàng. Tuy nhiên, Guinness thông báo Ban giám khảo rằng họ bỏ sót hai điểm cho cô Preis vì không thấy mũi kiếm cô Preis chạm vào bộ võ phục của Guinness. Khi tính điểm đó vào, kiếm sĩ Preis được  Huy chương vàng, Guinness được Huy chương bạc. Cực kỳ hy hữu. Bởi vì, không mấy người muốn rời ngôi "Thiên hạ đệ nhất kiếm" chỉ vì muốn giữ sự trung thực.

Tới đây, chúng ta có thể hỏi: các nhà sư Việt Nam đã xem việc luyện võ, hay việc luyện tập các môn thể thao như thế nào?

Có thể thấy rằng, tất cả hành động của Phật tử, cho dù là xuất gia hay tại gia, đều phải từ lòng từ bi mà làm. Nếu giữ được thượng võ mà thiếu vắng từ bi, cũng không đúng Chánh pháp. Nói từ bi, là nói vì muôn dân mà làm, không phải vì tên tuổi cá nhân hay chỉ vì thuần túy tìm vui. Như thế, hạnh Bồ Tát có khi phải ra trận, chịu sát nghiệp… vì nếu sơ xuất, cứ xem Tây Tạng bị Trung Quốc xóa sổ mà biết lo.

Nhà vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo cả nước đẩy lùi các cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông, và rồi năm 1293, truyền ngôi cho thái tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên làm Thái thượng hoàng. Sau đó Trần Nhân Tông vào chùa, xuất gia, lấy hiệu Trúc Lâm đại sĩ, khai sáng Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam và tinh thần nhập thế.

Tâm từ bi của Trần Nhân Tông thể hiện ở nhiều trường hợp. Khi chiến thắng quân Nguyên xong, vua ra lệnh đốt tất cả những bằng chứng có thể kết tội những người đã từng đồng lõa với phương Bắc. Khi tang lễ cho thượng hoàng Thánh Tông năm 1290, Trần Nhân Tông nghe lời quan Đỗ Quốc Kế bằng cách dùng ngựa thay cho kiệu. Sách chép rằng Ngự sử đại phu Đỗ Quốc Kế khuyên vua Nhân Tông: "Phàm để tang không nên làm thương tổn người sống. Nay thiên tử đều dùng kiệu khiêng, thế là người sống bị tổn thương, xin hãy cưỡi ngựa" – và Nhân Tông nghe lời họ Đỗ. Để giúp dân khi đói nghèo, Trần Nhân Tông cũng phát chẩn, bỏ thuế đinh…

Trong sử Việt cũng kể về các nhà sư giỏi các môn thể thao. Thí dụ, như trong môn chèo thuyền, có Thiền sư Pháp Thuận. Thực tế, chèo thuyền phải là chuyên nghiệp. Không ai tập vài ngày mà đóng vai chèo thuyền cho vững vàng. Bên cạnh kỹ năng khéo léo chèo thuyền, cũng phải có sức khỏe trên trung bình.

Pháp Thuận (914-990) trụ trì ở Chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ải. Sư học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ. Năm 987, có người Tống là Lý Giác sang sứ, vua Lê Đại Hành sai Sư cải trang làm kẻ lái đò để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Lý Giác cao hứng ngâm chơi hai câu thơ. Sư Pháp Thuận đang là anh lái thuyền cầm chèo, ngâm tiếp hai câu nối vần. Sứ nhà Tống kinh ngạc.

Nơi đây, nói về kỹ năng chèo thuyền, chúng ta không rõ Sư Pháp Thuận có dư sức để thi chèo thuyền Thế Vận hay không, nhưng hiển nhiên là phải giỏi môn thể thao này vậy.

Có nhà sư Việt Nam cũng giỏi môn cử tạ, vác được nhiều tấn đồng đen. Đó là trường hợp Không Lộ Thiền Sư. Ngài có tên Lý Quốc Sư (1065 – 1141), được vua phong quốc sư tên hiệu Nguyễn Minh Không, được dân tôn vinh là ông tổ nghề đúc đồng. Sư giỏi y lý, có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân, nên được người Việt tôn sùng là đức thánh Nguyễn. Đạo Mẫu tôn vinh Sư là vị thánh trong tứ bất tử. Truyền thuyết kể rằng Sư từng thò tay vào vạc dầu đang sôi vớt hàng trăm chiếc kim chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông. Phải chăng đó cũng là môn võ mình đồng da sắt?

Theo truyền thuyết, Ngài Không Lộ từng chữa bệnh cho vua phương Bắc. Khi vua trả ơn, hỏi muốn lấy gì, Sư nói chỉ xin một ít đồng đen cho vào tay nải. Và thế là tất cả kho đồng của vua phương Bắc đều chui vào tay nải của ông trước sự kinh ngạc của triều đình. Ông lại thả nón tu lờ làm thuyền bơi về nước Nam. Về đến Thăng Long ông đúc thành chuông. Đó là ngoại sử… Thực tế, không thể có chuyện như thế, vì nếu như thế, Ngài Không Lộ đã phạm giới. Ông bà mình khi đưa vào huyền sử các chi tiết như thế, chỉ có ý cảnh giác đời sau phải coi chừng triều đình phương Bắc.

Nói vể luyện võ để hộ quốc an dân còn có Khâu Ni Công chúa, tên là Nàng A. Theo sách Danh tướng Việt Nam - Tập 4 của Nguyễn Khắc Thuần, do NXB Giáo Dục, ấn bản 2005, viết theo thần tích (sự tích chép lại để nơi đền thờ), cho biết đó nữ tướng này của Hai Bà Trưng nguyên là một ni cô, trích:

“Trong số các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng, có một nữ tướng rất đặc biệt, đó là Nàng A - vị nữ tướng vốn xuất thân là một nhà tu hành theo Phật giáo. Theo thần tích ở đền Nhật Chiêu (nay thuộc huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc) thì Nàng A vốn là một cô gái xinh đẹp và rất chịu thương chịu khó (theo tờ thần tích này, Nàng A cũng có khi được chép là Quách A).

Bấy giờ, bọn tay sai nhà Hậu Hán định bắt Nàng A dâng nạp cho quan đô hộ để lấy thưởng, Nàng A đành bỏ làng vào núi để tu, cũng là để tạm lánh bọn ác quỷ. Từ đó, Nàng A có đạo hiệu là Ni cô Khâu Ni. Nơi Ni cô Khâu Ni tu hành nay chính là chùa Huyền Cổ. Vào thời ấy, quân đô hộ thi nhau ức hiếp dân lành, chúng tàn ác chưa từng thấy, người người đều oán giận, đến cả bậc tu hành từ bi như Khâu Ni cũng không thể nào chịu đựng nổi. Khâu Ni liền bí mật tập hợp những người giàu lòng yêu nước và quyết tâm giết giặc để sẵn sàng chờ cơ hội vùng lên.

Được tin Hai Bà Trưng cũng đang ráo riết chuẩn bị lực lượng cho một cuộc khởi nghĩa lớn, Khâu Ni lập tức đem toàn bộ lực lượng của mình về ra mắt Hai Bà. Hai Bà Trưng rất vui mừng, liền phong cho Khâu Ni làm Tả tướng. Và chính Tả tướng Khâu Ni là một trong những vị tướng có công rất lớn trong trận đánh quyết định vào thành Luy Lâu (Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), khiến cho tướng giặc là Tô Định bị đại bại, phải vất bỏ ấn tín, cạo râu, cạo tóc mà tháo chạy về Trung Quốc. Nhờ công lao này, Nàng được Trưng Nữ Vương phong làm Khâu Ni Công chúa và cho được cai quản vùng đất nay tương ứng với Yên Lạc (Vĩnh Phúc).

Nhưng sau ngày đại thắng chưa được bao lâu thì Khâu Ni Công chúa đã lâm bệnh rồi qua đời. Để khắc ghi công trạng và ân đức của Khâu Ni Công chúa, nhân dân ở nhiều địa phương nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc đã lập đền thờ Bà.”(ngưng trích)

Có một nữ tướng khác của Hai Bà Trưng đã từng hai lần vào Chùa Tiên La: đó là Bát Nàn công chúa. Đạo Mẫu thờ bà Bát Nàn, nên có nhiều đền thờ và có nhiều thần tích viết khác nhau. Bát Nàn tên là Thục Nương, có chồng là một Lạc hầu. Năm Kỷ Hợi 39, khi Đặng Thi Sách (chồng Bà Trưng Trắc) bị giết ở Châu Diên thì chồng bà Thục Nương cũng bị giết ở Diên Hà. Khi đó, quân Tô Định vây chặt dinh trại, chồng bà bị hại, nửa đêm bà cầm song đao, mở đường máu chạy đến làng Tiên La, vào chùa ẩn thân. Năm 40, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, bà rời chùa, theo giúp, giữ một đạo quân tiên phong. Năm 41, quân phương Bắc lui. Hai Bà Trưng lên ngôi vua đóng đô tại Mê Linh – Vĩnh Phúc, bà cởi bỏ nhung trang trở về chùa làng Tiên La, lập trang ấp sinh sống. Năm 43, nhà Hán sai Phục Ba Mã Viện dẫn 20 vạn quân sang phục thù, bà dẫn thanh niên trong làng ra giúp nghĩa quân của Hai Bà Trưng. Thua trận, Hai Bà Trưng tuẫn tiết trên dòng sông Hát, trong khi Bát Nàn cùng tàn quân chạy về trú ngụ tại chùa Tiên La. Khi quân phương Bắc tới truy sát, vây chùa, bà rút gươm tự sát, không chịu để quân giặc làm nhục.

Trong cõi này, hiển nhiên là có quá nhiều điều bất như ý. Bất hạnh nhất là rơi vào chiến tranh. Bởi vì, nghiệp sát là nặng. Nhưng trên thế giới chúng ta, không bao nhiêu chỗ có hòa bình. Như với người sinh nơi vùng Trung Đông, không thể nào sống đời bình yên được. Trường hợp như thế, chỉ có Đạo Phật là phao cứu người tuyệt vời nhất, trong đó từ bi luôn luôn là một phần của chìa khóa giải thoát. Bổn Sanh Truyện có kể về một kiếp quá khứ của Đức Phật, khi chiếc tàu chở 500 thương gia lênh đênh ngoài biển, một tên cướp muốn giết toàn bộ các thương gia để cướp tàu hàng. Người thuyền trưởng Bồ Tát vì lòng từ bi, không muốn tên cướp lãnh nghiệp sát quá nặng, nên mới giết tên cướp để Ngài sẽ nhận nghiệp sát vì lòng từ bi. Đó là một lựa chọn khó khăn.

Đối với các môn thể thao, lựa chọn thực ra dễ dàng hơn. Nhưng trước hết, và sau hết, tinh thần thượng võ phải khởi xuất vì lòng từ bi. Bởi vì, từ bi cũng là một chiếc ghe để qua bờ bên kia.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2011(Xem: 3081)
Phật Giáo Hoà Hảo được khai sáng từ năm 1939 trong dòng lịch sử cận đại của dân tộc - một nền đạo quy nguyên Phật pháp, với phương thức hành đạo đơn giản, không chuộng hình tướng lễ mễ, rườm rà mà cốt yếu hướng về tâm, chủ trương nhập thế tích cực vào mọi phương diện của xã hội, đã nhanh chóng phù hợp với phong hoá nhân sinh vốn mộc mạc, thuần phác ở vùng châu thổ sông Cửu Long.
23/02/2011(Xem: 3435)
Chính thức ra đời từ tháng 11-1926 với một lễ rất long trọng (gọi là Khai minh Đại đạo) tại chùa Gò Kén, làng Long Thành,[1] đạo Cao Đài dần dần hình thành những cộng đồng Cao Đài khác nhau trong lịch sử phát triển của nền tôn giáo bản địa mới mẻ. Mỗi cộng đồng bao gồm nhiều tín đồ với những sinh hoạt tu hành lâu đời kết tập. Sự thấm nhuần giáo lý và hàm dưỡng trong việc thực hành pháp môn trải qua thời gian mấy mươi năm đã hình thành những sắc thái riêng trong nếp nghĩ, trong hành vi, trong tình cảm của các tín đồ Cao Đài. Như vậy là có tâm lý của người tín đồ Cao Đài, nếu hiểu thật đơn giản rằng: Tâm lý là những đặc điểm về tình cảm và hành vi của một cá nhân, một nhóm người, hay một hoạt động.[2]
19/02/2011(Xem: 3049)
(VOV) - Hình ảnh những tảng thịt xâu, móc trên giá, máu còn nhỏ đỏ tươi, có miếng trơ xương, có miếng còn nguyên da lủng liếng ở một góc “chợ” trên đường vào Chùa Hương thật gây phản cảm cho người hành hương. Mới đây Đài Truyền hình Trung ương đã chiếu một phóng sự ngắn, lên tiếng về việc thịt thú rừng được treo, bày bán vô tội vạ gần thắng cảnh Hương Sơn. Hãy khoan nói về việc đó có thể là thịt thú rừng thuộc danh mục cấm săn bắn, việc có thể thú nhà giả thú rừng.v.v… Ở đây tôi chỉ muốn nói đến những hình ảnh gây phản cảm đối với khách hành hương.
19/02/2011(Xem: 3933)
Tôi chỉ là một Tu Sĩ tầm thường nhất, cho nên khi đọc những bài viết mang tính công kích, bài trừ mê tín về Hoa Trời. Tôi không chắc là Hoa Mạn đà la hay Mạn thù sa, cho nên tôi tạm gọi là Hoa Trời. Khi tôi nhận được các E-mail của Quý Ngài, cũng như vào các Websites thấy hình ảnh Hoa Trời, và nhất là lúc hành lễ Phật Ngọc có vòng hào quang xuất hiện trên trời. Lúc đó tôi rất mừng và vô cùng hoan hỷ để được chút Công Đức Tùy Hỷ. Vì mình không có góp công, góp của trong việc thỉnh Phật Ngọc Hòa Bình, nhưng có tâm tuỳ hỷ cũng được Tùy Hỷ Công Đức. Do đó, tôi thấy niềm tin của tôi phát khởi mạnh thêm, làm cho tôi tinh tấn thêm. Những Phật tử cũng điện thoại và E-mail cho tôi, thấy những hiện tượng này, làm cho gia đình họ vô cùng hoan hỷ và phát lòng tin mạnh mẽ để tinh tấn hơn. Những hình ảnh đó, đã có tác dụng làm cho bao nhiêu triệu người Phật tử trên thế giới vui tươi. Giúp họ rơi rụng đi biết bao nhiêu nhiệt não, bao nhiêu đau khổ bởi cuộc đời. Những hình ảnh ấy, đã làm cho tâm hồn h
19/02/2011(Xem: 3340)
Trong Ca Khúc Đông và Tây (The Ballad of East and West), văn hào người Anh Rudyard Kipling (1865–1936) đã viết “Ôi, Đông là Đông và Tây là Tây, cả hai chẳng nên hề gặp gở” (Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet) đã trở nên câu nói thời thượng diễn tã sự dị biệt khó hòa giải giữa hai nền văn hóa.
19/02/2011(Xem: 3706)
Ai đó dựng ra câu chuyện “sư cô trụ trì” cải đạo theo Chúa là người có tâm lý cạnh tranh tôn giáo kém lành mạnh, nếu không muốn nói là hành vi thiếu lương thiện, và những người lợi dụng tình cảnh đau đớn, lúc mê lúc tỉnh của bệnh nhân để đạt mục đích cưỡng đoạt niềm tin tôn giáo là phi đạo đức.
12/02/2011(Xem: 6698)
Có rất nhiều hình tượng để chúng ta hư cấu, mà thông qua đó gởi gấm tâm sự của mình, hay phê phán hoặc giáo dục thói hư tật xấu của xã hội. Phật, Bồ-tát và thánh tăng là những mẫu người toàn thiện của xã hội, những bậc vĩ nhân của nhân loại (chứ không phải của chủ nghĩa lý tưởng hóa).
23/01/2011(Xem: 3714)
Tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác chính là tôn trọng mình. Ai đem sự tôn trọng đi thì nhận lại sự tôn trọng. Đó là định luật nhân quả. Người viết xin được mở đầu câu chuyện trong tuần kỳ này bằng câu thành ngữ “Cáo mượn oai hùm” thường ngụ ý để chỉ cho những người ưa lòe bịp, hù dọa mọi người bằng quyền uy của người khác để tự tung tự tác. Chuyện kể, có một con hùm đói bụng đang tìm cách săn mồi thì gặp ngay một con cáo. Cáo thấy nguy bèn nói: “Này anh hùm, anh đừng có ý định ăn thịt tôi. Trời đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Anh mà ăn tôi là làm trái ý của trời! Không tin, tôi đi đằng trước, anh đi đằng sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ?”. Quả nhiên, khi cả hai cùng bước đi, mọi vật nhìn thấy đều chạy tán loạn. Con cáo lấy uy của trời để lừa hùm, rồi lại mượn hình ảnh của hùm để dương dương tự đắc với những loài vật khác.
08/01/2011(Xem: 4066)
Chẳng bao lâu nữa, đám lửa bùng lên từ Mỹ Đình kia, hay từ bất cứ tư gia nào, sẽ lan hết khắp mọi miền đất nước, và lan cả đến xung quanh chùa Quán Sứ, hay mỗi ngôi chùa khác. Mùa Noel năm nay, bên cạnh các hoạt động tưng bừng không khí ăn chơi, hội hè, mua bán thường thấy ngoài xã hội, chúng ta còn chứng kiến sự trỗi dậy của Tin lành, qua một loạt các sự kiện lễ hội mừng giáng sinh được tổ chức vào giờ chót khắp nơi trên đất nước, đặc biệt tại TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội.
06/01/2011(Xem: 4305)
Những người mưu toan cải đạo tín đồ Phật giáo sang các tôn giáo phương Tây luôn săn tìm những không gian thuận lợi để tổ chức thực hiện việc cải đạo. Tất cả mọi địa điểm đều được chú ý đến, đặc biệt là những địa điểm công cộng như trường học, bệnh viện, kể cả những không gian di động, nhưng có nhiều thời gian để hành sự, như xe đò đường dài, xe lửa…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567