Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vấn nạn Chùa Thanh Lương từ nhiều phía

05/08/201416:51(Xem: 6236)
Vấn nạn Chùa Thanh Lương từ nhiều phía
chua thanh luong (3)
VẤN NẠN CHÙA THANH LƯƠNG
(Phú Yên)
NHÌN TỪ NHIỀU PHÍA


Không phải ngẫu nhiên mà cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1904 – 1984)(1) cho ghi câu cổ ngôn người xưa vào ngay trang đầu của quyển Kinh Hiền Nhân do Ngài dịch thuật rằng:

“Trường đồ tri mã lực

Cửu xử thức Hiền Nhân”

(Đường dài mới biết ngựa hay

Ở lâu mới biết ai người Hiền Nhân)

Bởi vì đây là bộ kinh gói gọn trong phương pháp xử thế mà xưa kia đức Thế Tôn đã ân cần khuyến hóa cho các vị quốc vương, hàng đệ tử và đặc biệt cư sĩ Tu Đạt. Giá trị và ý nghĩa của bộ kinh này luôn là bài học ngàn vàng cho nhân thế, đặc biệt với con nhà Phật đang sống, tu học cùng nhau trên mảnh đất đời người chật hẹp nhưng có vô vàn hiểm họa rình rập từng ngày. Vì thế, trong nhiều giới luật Phật chế, có rất nhiều những định thể chặt chẽ, ràng buộc như thể là thức ăn nuôi sống cho thân mạng này, để chư hành giả biết nương tựa vào nhau mà sống, mà tu học tinh tấn.

Đức Phật nói rằng kết bạn có bốn thứ: Một là kết bạn như hoa; hai là kết bạn như cân; ba là kết bạn như núi và bốn là kết bạn như đất. Với hai tiêu chí đầu, đó là bản chất thường trực của thế gian đầy ô hợp và mưu toan, tính lợi hại thiệt hơn và dựa dẫm với nhau khi có lợi, quay lưng phản mặt lúc lâm nguy. Hoa: khi héo tàn vứt bỏ, khinh rẻ nhau. Cân: nghiêng về bên nặng. Khác với hai tiêu chí tiếp theo: Núi: Ngọn núi vàng chỉ để dành cho muôn thú tề tựu tiếp thêm sắc vàng rực rỡ, khi sang thì cùng sang với nhau, khi vui thì vui với nhau. Đất: tất cả mọi vật đều từ đất mà ra, làm bạn để nuôi dưỡng, ủng hộ nhau ân hậu không bội bạc.

Nhìn từ những điểm chính yếu đó của Kinh Hiền Nhân, chúng ta dễ dàng nhận ra các diễn biến chung quanh mình trong cuộc sống và trong tu học. Bước lên cao nữa là mục đích hóa đạo và phát triển mạng mạch Phật pháp. Trong một tổ chức, tất phải có chức vị, có chức vị phải có quyền hạn nhất định. Nếu chức vị và quyền hạn ấy rơi vào những tư tưởng cực đoan, kém đức thiếu tài thì chỉ làm tổn hại hình ảnh Phật giáo, làm méo mó hình ảnh, công hạnh cao đẹp của chư Tăng Ni vốn luôn được kính trọng.

Tất nhiên về lâu dài sẽ trở thành thảm trạng, gây khổ lụy tràn lan. Một ngôi chùa, một vị Tăng Ni bị bách hại, nếu không là thành phần thuộc tiêu chí kết bạn như NÚI, kết bạn như ĐẤT thì cũng sẽ là loại bạn như HOA, như CÂN. Chính những thành phần này vô tình hay hữu ý tiếp tay cho cái xấu được tồn tại và phát triển ngay trên mảnh đất nó được sinh ra. Vì thế sẽ chẳng có chi ngạc nhiên khi có ai đó nói rằng cái vụ chùa A chùa Z đó những tưởng đã im rồi mà sao bây giờ lại dậy sóng, rất bực mình? Mình đứng phía ngoài mà còn biết bực mình như thế thì Phật tử và vị trụ trì nơi đó, tức những người là nạn nhân đang phải hứng chịu trực tiếp thảm họa ấy, thì người ta còn khổ sở và bực mình biết bao nhiêu.

chua thanh luong (2)

Thật ra, với những mưu đồ xấu, trong tâm tư người chủ mưu sẽ không bao giờ ngừng nghỉ, lúc nhặt lúc khoan và có lúc tưởng như …im lặng! Đây là cách nhìn từ phía ngoài không sai. Kỳ thật, cái mưu đồ ấy luôn gây khổ sở cầm canh, thường trực cho nạn nhân. Thử nghĩ đi, những tác động ấy làm ngưng trệ công việc tu học ở một ngôi chùa, Tăng Ni nơi ấy và nhất là làm lực cản bằng quyền uy, gây hoang mang cho cộng đồng Phật tử, làm bước phát triển mạng mạch Phật đạo nơi ầy bị khúc khuỷu gập gềnh, sẽ là tội gì trong Luật Tứ Phần Giới Bổn? Như thế có còn xứng đáng là một trưởng tử Như Lai hay người thể hiện quyền uy lãnh đạo cao nhất của Phật giáo sở tại.

Với cách nhìn hai bên, là bạn bè với nhau (như ĐẤT và như NÚI), cùng chia ngọt xẻ bùi, cùng chia hưởng niềm vui, thấy sai phải biết nhìn nhận, nghe sai phải biết lên tiếng và biết sai phải tới nơi để tường tận sự việc. Từ đó bảo vệ nhau muôn đời vẫn là gương tốt cho hậu tấn. Ông Bà ta ngày xưa viết ra vở chèo Quan Âm Thị Kính quả thật chí lý khi bày ra cảnh quan viên làng nước xử vụ Thị Kính “chửa hoang”. Khán giả sẽ cười mà cười ra nước mắt khi nhận ra sự thâm thúy khi mà các vị quan làng xử án toàn là Hương Câm, Đồ Điếc, Quan Què! Ở đây không có chuyện miệt thị người khuyết tật, bởi lẽ khi chúng ta đặt câu hỏi và tự trả lời rằng Quan làng gì toàn là như vậy, hết sức vô lý. Sẽ không vô lý chút nào đâu, bởi vì mấy anh quan này biết nỗi oan vô lý của Thị Kính mà không đến nơi tìm hiểu cặn kẽ, nên QUÈ. Thấy nỗi oan sờ sờ ra đó mà làm ngơ nên ĐUI. Nghe tiếng kêu than oan ức mà không chịu lắng nghe lẽ phải nên ĐIẾC. Biết việc sai trái mà không lên tiếng bảo vệ nên CÂM. Tất cả cộng lại nên mới có nỗi oan Thị Kính là vậy.


Nhìn từ phía sau lưng, là một trưởng tử Như Lai, hay đang có trách nhiệm lo sóc phần tâm linh hoặc phát triển mạng mạch Phật đạo tại nơi trú xứ, thấy vị Tăng Ni hay một ngôi chùa nào đó phát triển, hóa đạo thành công sẽ là niềm vui cộng hưởng to lớn nhất cho đời sống đạo hạnh của một bậc xuất gia; nếu không trực tiếp góp phần ủng hộ cho nơi ấy thêm sức mạnh thì một tiếng nói, một hành động vừa phải cũng giúp nâng cái giá trị thật của mình. Chưa nói đến khi gặp hữu sự, việc cùng nhau san sẻ, gánh vác không nằm trong tính đố kỵ cũng sẽ là thước đo giá trị của chính mình.

Đọc lại tiểu thuyết Phật giáo bất hủ Thoát Vòng Tục Lụy của Ngài Tinh Vân, đoạn Ngọc Lâm chỉ vào mặt Tiểu Mã mà thẳng thừng rằng “Ngươi luôn tự hào về đức Khổng Phu Tử, mà lại quên ở Khổng tử có ba điều khó học để đến nỗi thầy Tăng Tử phải thầm khen. Đó là: Thấy người ta có một điều phải mà mình phải bỏ đi trăm điều trái của họ, đó là mình dễ hòa nhập. Thứ hai, thấy người ta có điều gì phải thì mình vui vẻ xem như là của mình, đó là không ghen tỵ. Thứ ba, nghe người ta làm điều gì phải thì mình nhất quyết làm theo, đó là mình chịu khó thực hành”.

Câu chuyện về con chim Flappy Bird của Nguyễn Hà Đông gần đây vẫn luôn khiến lòng chúng ta nhức nhối khi kết cục của nó là một cái chết đáng buồn nhất trong làng giải trí công nghệ. Chính cái “Thói Tiểu Nông Đã Giết Chết Flappy Bird” như tác giả Quan Thế Dân viết trên Vnexprebs.Trong đó có những đoạn làm nhức nhối tâm tư “Họ sợ không dám rời xa cái ao làng của mình, cho dù cơ hội làm ăn ở ngoài kia rất lớn…Chúng ta sợ một thương hiệu Flappy Bird cả thế giới biết đến…mà chúng ta lại vứt đi, rồi tự khen là nhân văn, nhân bản. Thật “sến” hết chỗ nói…Nhưng thôi, tất cả đã qua đi rồi. Con chim Flappy Bird là một sản phẩm công nghệ cao, không thể bay trên một đất nước công nghiệp lạc hậu được…”

Chuyện ganh tị, trâu cột ghét trâu ăn hay thói dựa dẫm, nhu nhược và ỷ lại tưởng đâu chỉ có ở ngoài tường rào của các ngôi tự viện, đã khiến không ít người nhầm lẫn thốt lên không biết nó xuất phát từ đâu trước. Nhưng sẽ cay đắng hơn và thấm thía nhiều hơn của một du học sinh Nhật Bổn, trong 4 năm ở nước Việt Nam với câu chuyện Việt Nam nhà giàu- và những đứa con chưa ngoan”, trong đó sau khi nhận định và so sánh hai nền văn hóa hai nước Nhật-Việt, cô viết mấy câu “Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã nói sai điều tôi nói. Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học…người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không con chim Flappy Bird đã không phải chết yểu đau đớn…”

Đúng như vậy, ngoài hệ lụy của luật nhân quả, chính những tính xấu của hai loại bạn trên sẽ chỉ sống được trên vũng ao nhà do chính mình tung hoành mà có, vượt ra khỏi đó là chuyện không thể có. Cho nên người hàng xóm có lâm nạn thì cũng là chuyện của hàng xóm, dù cùng mang một màu sắc vàng như nhau. Một tiếng nói để bảo vệ nhau, một hành động dù nhỏ nhất cũng sẽ rất khó vì vũng ao nhà chỉ có bấy nhiêu độ sâu đó mà thôi. Tù đọng hay có ô nhiễm ra sao vẫn sống và sống muôn đời là vậy.

Và nhìn phía trước mặt: Một đoạn đường dài sương mù che khuất lối.

DƯƠNG KINH THÀNH

1) Hòa Thượng Thích Hành Trụ cũng là người làng Phương Lưu, Huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/12/2010(Xem: 3495)
Khi thấy những không gian ngập tràn sách trong ngày hội sách đang diễn ra ở nhiều thành phố lớn, lòng tôi rộn lên một niềm vui khó tả. Tôi bỗng nhớ về những ngày chật vật gom từng cuốn sách từ nước ngoài về Việt Nam, thời chúng ta còn hiếm sách.
27/12/2010(Xem: 3702)
Người dịch: Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đống góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó. Nội dung cuốn sách tập trung thảo luận về đạo đức học Phật giáo và liên hệ nó với những vấn đề đạo đức hiện đại như phá thai, hạn chế sinh sản, nghiên cứu phôi thai, trợ tử, việc kéo dài trạng thái sống thực vật.v.v… Cuốn sách cũng bàn đến vấn đề khi nào thì đời sống một con người được xem chính thức bắt đầu, và khi nào cái chết được coi chính thức xảy ra.
24/12/2010(Xem: 4484)
Phật giáo Việt-Nam trải qua nhiều bước thăng trầm. Đời Lý, Trần Phật giáo cực thịnh, là quốc đạo. Triều Lê Phật giáo bắt đầu suy vi. Đến triều Nguyễn Phật giáo sa sút, mất hẳn vị trí trong chính trị văn hóa và xã hội ở Việt-Nam.
19/12/2010(Xem: 4429)
Gần đây có người nói rằng Phật Giáo Đại Thừa là Bà La Môn Giáo, là tà ma ngoại đạo. Thật ra lời nói này không có gì mới lạ, nó đã có từ thời xưa, khi Phật Giáo đang ở trong thời kỳ phát triển. Tuy nhiên, nhằm tránh sự hoang mang cho những người mới bước chân vào đạo Phật và cho những Phật tử không có nhiều thì giờ nghiên cứu về sự khác biệt giữa hai tôn giáo nên chúng tôi viết bài dưới đây. Chúng tôi không có ý so sánh hai tôn giáo lớn của nhân loại, vì việc làm này là của các nhà học gỉa, mà chúng tôi chỉ đưa ra vài điểm khác biệt quan yếu có tính cách nền tảng giữa đạo Phật nói chung, Phật Giáo Đại Thừa nói riêng so với Bà La Môn Giáo.
18/12/2010(Xem: 14783)
Nhận Xét Của Thượng Tọa Thích Đức Thắng Về Quyển Sách: Đường Về Xứ Phật Thích Thông Lạc
08/12/2010(Xem: 4912)
“Tăng ly chúng tăng tàn”, còn chúng tại gia ly chúng xuất gia thì ra sao? Thế nào là “cư sĩ ly tăng”? Đâu là nguyên nhân và đâu là cách giải quyết vấn đề? “Tăng ly chúng” là một vấn đề đã được bàn luận nhiều.
24/11/2010(Xem: 10039)
Mấy ngày qua, cả nước oằn mình trước sự tàn phá đầy tang thương của cơn bão Ketsana. Cũng thời điểm đó “cơn bão” bất khoan dung của chính quyền tỉnh Lâm Đồng kéo đến tu viện Bát Nhã, gây nên tình cảnh bất an cho khoảng 400 Tăng Ni tu theo pháp môn Làng Mai. Hai cơn bão đến cùng một lúc khiến cho lòng người Phật tử Việt Nam thêm quặn thắt.
23/10/2010(Xem: 3608)
"Chẳng có gì hổ thẹn cho một người có ông nội là khỉ. Nếu có gì đáng hổ thẹn về tổ tiên của tôi, thì đó là vì tổ tiên của tôi là người: một người có trí thức nông cạn và bất nhất, một người không biết tự bằng lòng với thành công trong lĩnh vực riêng của mình, lại hăm hở can thiệp vào những vấn đề khoa học hoàn toàn xa lạ, làm tối tăm vấn đề bằng thứ từ chương rỗng tuếch, đánh lạc hướng chú ý của cử tọa để khỏi đi vào những vấn đề thực sự đặt ra bằng lối nói lạc đề đầy hùng biện và những hô hào đầy thành kiến tôn giáo".
16/10/2010(Xem: 3803)
Tuần vừa qua, một cuốn phim Đại Hàn ra mắt khán giả Paris, được khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là : Xuân Hạ Thu Đông ... rồi Xuân (1). Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên thơ quá. Xuân hạ thu đông thì chẳng có gì lạ, nhưng xuân hạ thu đông ... rồi xuân thì cái duyên đã phát tiết ra ngoài. Huống hồ, ở trong phim, xuân rồi lại xuân trên một ngôi chùa nhỏ ... trên một ngôi chùa nhỏ chênh vênh giữa núi non.
16/10/2010(Xem: 4251)
"Giê-su qua cái nhìn của người Phật tử": đây là một đề tài lý thú, nhưng quả thực là khó. Trước hết, trong tất cả những đạo lớn của thế giới, có lẽ đạo Phật là đạo xa cách đạo Ki-tô nhất trên những giáo lý cơ bản và trên nhiều điểm quan trọng, mặc dù vẫn gần gũi, hay có vẻ gần gũi, trên nhiều điểm khác. Thứ đến, vì hình thức hành đạo rất đa dạng của đạo Phật qua thời gian và không gian, vì sự hội nhập của đạo Phật vào nhiều nền văn minh khác nhau, vào nhiều dân tộc khác nhau, mà có thể có những "cái nhìn về Giê-su" rất khác nhau giữa những người Phật tử. Sau hết, nếu chúng ta biết khá rõ về cái nhìn của người Phật tử, nhất là Phật tử thời nay, về đạo Ki-tô, chúng ta rất ít khi được nghe họ nói quan niệm của họ về cá nhân Giê-su.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567