Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đối phó và lắng nghe

28/03/201407:19(Xem: 5700)
Đối phó và lắng nghe

Trong dòng chảy thời cuộc, con người ta luôn bị đặt trong tư thế ứng phó. Sự ứng phó đó có lúc là để thích nghi, có khi là giải pháp tình thế và thậm chí là để khẳng định thế đối lập. Thật khó tưởng tượng trước kết quả của các hiện tượng này và không thể khẳng định được việc nào đúng việc nào sai hay việc nào đi chệch đường, bởi vì tất cả đều có ẩn sâu trong đó một chủ đích.

Trong dòng chảy khắc nghiệt đó, các tổ chức chính trị, xã hội v.v… bị cuốn hút vào đó để mong tìm ra hướng đi gọi là mới cho mình, cho tổ chức, tập thể mình mà thực chất đó cũng chỉ là động thái tùy thuận. Riêng về khía cạnh kinh tế, sự nhạy bén và thích ứng triệt để luôn được chọn làm tư thế tiên phong, luôn dành cho mình sự chủ đông mạnh mẽ để sống còn mà …kinh doanh! Vì thế người ta cho rằng sự thích ứngcủa khía cạnh kinh tế không phải là mệnh đề đại diện, nói thay các mặt hoạt động khác, và không thể là tiêu biểu của cách sống và lối sống của đạo đức con người.

Về mặt đạo đức, xã hội. Không nói chúng ta cũng dễ dàng nhận ra ngay câu trả lời là nó luôn đi ngược lại tất cả những cái mớicái thích ứng đó. Vì nó là hình thể và là bản chất sống của con người lẫn vạn vật. Nó đi trước tất cả, sớm có mặt ngay từ thuở hoang sơ của sự sống, khi con người biết vận dụng tư duy trong cách sống quần thể.

Như vậyứng phóthích nghicủa hai mặt đã có những cách biệt tự nhiên đó. Nhưng dường như về sau này, trong nhiều lãnh vực, người ta quên hẳn điều này, dồn chung tất cả vào một khái niệm để hành động là thích nghiứng phó. Từ đây biến nó thành căn bệnh trầm kha, triền miên trong cõi người ta. Thật sai lầm biết bao, từ đó phát sinh nhiều hệ lụy. Xung đột, chia rẽ nhận thức cũng từ đó manh nha, cộng hưởng và cùng tồn tại.

Từ trong khái niệm của con người, thử nói qua cái gọi là chân lý(lý thuyết đạo lý chân chính, để đối phó với lý thuyết sai trái) hay chánh đạo (con đường của lý thuyết chân chính để đói phó với tà đạo). Như vậy đã là chân lý, chánh đạothì không có chuyện sửa sai hay đổi mới cho phù hợp. Sửa sai hay đổi mới trong trường hợp này đích thị là ứng phócho… thích nghi! Nếu như vậy phải gọi là đa lý-tạp lý (chứ không là chân lý) và cong đạo(chứ không là chính đạo). Điều này khiến chúng ta nhớ đến câu nói bất hủ của nhà vật lý lừng danh Albert Einstein (1879 – 1955), trong đó có đoạn “…Tôn giáo của tương lai phải là thứ tôn giáo của khoa học vũ trụ. Tôn giáo đó không cần sửa đổi hay đổi mới cho phù hợp với khoa học và cuộc sống thời đại…Tôn giáo đó chỉ có thể là Phật giáo mà thôi…”Nhà vật lý lừng danh này đã cho thời đại chúng ta thấy được sự thật từ lời nói đó với rất nhiều sửa saiđổi mớicủa nhiều học thuyết, nhiều tôn giáo mà cách đây không lâu họ còn cho là tà đạo, không ngần ngại xử chết bất cứ ai nếu dám nói ngược lại sự hoang tưởng, để bảo vệ hình tượng họ đang tôn thờ.

Đó cũng làbài học ngàn vànghiện hữu có lẽ nào không giúp chúng ta thêm sáng mắt tỏ lòng để nhìn về một hướng mà từ hơn hai ngàn năm trăm năm qua đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni đã vạch ra, cho đến tận thời đại ngày nay con đường ấy ngày càng thêm thênh thang rộng mở, chưa hoen rỉ một giọt máu nào trên con đường chúng ta đi theo Ngài và chưa một lần phải làm một động tác sửa sai hay đổi mớinào?

Vì sao? Vì chư Tổ Sư ngàn xưa, chư Tôn Đức tài ba, trong các biến động xã hội hay thậm chí nguy hại đến bản thân mình, các Ngài vì đã nhận thức rõ chân lý vô thường Như Thịmà điềm tỉnh dung nạp, dù đó là nghịch duyên khốc liệt. các Ngài không đối phó mà chỉ ứng phó một cách hiền từ. Nhờ vậy đức thêm dầy, hạnh thêm cao, tự thân “đánh đổ” được dòng chảy đa sắc màu của cuộc sống với nụ cười vô cùng an lạc. Đây chính là nền tảng đạo lý muôn đời noi theo để gầy dựng một xã hội an lành, hạnh phúc, như phần đầu trên người viết có đề cập đến. Nó không bị tác động của thời cuộc bào mòn, không bị nghịch duyên làm méo mó hình ảnh chân lý Phật Đà.

Ngày nay, Phật giáo hòa nhập vào xã hội bằng hình thức tổ chức Giáo Hội, Hội đoàn v.v… một phần nào đó tự thân nó nói lên tiến trình làm bạn với tha nhân, sẵn sàng chấp nhận những va đập trần thế, dù chịu mất dần đôi chút tư thế tự tại vốn có của Phật gia. Biết hòa nhập cũng tức là biết chấp nhận đúng saicủa trần thế. Từ đây chúng ta phải trang bị cho mình một tinh thần cầu thị, biết lắng nghe để từng bước hoàn thiện tinh thần hòa nhập. Trên tinh thần này, không nên dùng hình ảnh đức Thế Tôn khi xưa so sánh với tổ chức mình, dù đang trong trạng thái tiêu cực hay tích cực, e quá đáng và rất nghịch lý. Ngay như trong những biến động thời cuộc, con người và hoàn cảnh thời Phật còn tại thế hoàn toàn chưa đúng như suy diễn của những tư duy áp đặt hiện nay. Đó là chưa nói đến các quốc gia có tinh thần Phật giáo khác trên toàn thế giới, nếu tất cả đều dành phần hình ảnh đức Phật so sánh cho riêng quốc độ mình với nhiều ẩn dụ, màu sắc, kèm theo nhiều lý lẻ khác…thì sẽ ra sao? Đó chắc chắn sẽ là một hình ảnh đức Phật bị dị dạng không hơn. Tội lắm!

Mấy ngày nay, lang thang trên net, đọc nhiều thông tin thú vị với nhiều cuộc Đại hội PG khắp các tỉnh thành. Nhưng đáng buồn thay, chỉ đếm được trên đầu ngón tay một vài bài viết hết sức chân tình, muốn gởi gấm thiện ý mình cho tổ chức Giáo hội mà mình tin tưởng. Rất bái phục. Nhưng có lẽ buồn hơn thế nữa là có những comments, có cả bài viết công kích lại những thiện chí đó bằng những lối sát hạch từ chương, rất tiểu tiết. Có người có hẳn một website hay blog cá nhân hẳn hoi và dùng tên thật hoặc pháp danh. Người viết những comments thiếu thiện cảm này lại chỉ là những nickname bay bổng, tỏ rõ dấu hiệu thiếu chân thật. Tất nhiên, không có quy định nào trong việc dùng nickname vô thưởng vô phạt nhưng với trường hợp này thì rất đối lập. Tính chân thật bao giờ cũng vẫn luôn được trân trọng.

Như vậy chẳng khác nào chúng ta tự lâm vào mê trận, luôn luôn cảnh giác và đối phó. Sẽ rất khó khăn nếu như muốn người khác đồng thuận mà thiếu tính chân thật và tư tưởng luôn dao động, đối phó như vậy.

Biết nghe lời trái ý mình (Nói theo nhà thơ trào phúng Tô Liên Bửu là Dám Nghe Lời Trái ý Mình)là một điều không phải ai cũng dễ dàng làm được. Đôi khi đó còn là vướng mắc của quyền lợi, danh vọng, Có tổ chức tức có chức vị, có chức vị tức đã là danh lợi, nên rất khó tránh khỏi bị vướng mắc. Các ý kiến khác, dẫu có thiện chí xuất phát từ đây cũng mất đi phần nào giá trị.

Chúng ta thật diễm phúc biết bao khi đã có một nền tảng đạo lý bất di dịch tuyệt vời đến là vậy làm chỗ tựa nương vững chắc. Còn lại chỉ là công hạnh tu tập, nỗ lực vươn lên của mỗi cá thể chúng ta mà thôi. Niềm tự hào to lớn này luôn là hành trang tiến bước của nhiều thế hệ Phật tử chúng tôi, nhưng nó cũng khác rất xa những điều bất di bất dịchcủa một tổ chức Giáo Hội mà việc đổi mới nhiều mặt hãy vẫn còn là điều rất xa lạ.

Khi người viết trách móc mấy vị đạo hữu phụ trách vài website Phật giáo rằng sao cả tuần nay không có bài nào mới thì được trả lời rằng:Anh ơi, Giáo Hội ba mươi năm kia mà còn y nguyên, không có gì mới, thì trách chi website chúng em chỉ mới có hai, ba năm nay thôi.

Nhập thế thì phải tùy thuận những hình thái trần thế để tồn tại mà hóa đạo. Đó là bước đầu tiên rất quan trọng. Đối phó không thể là chiến lược khôn ngoan của hậu duệ Tổ Sư ngàn đời đến nay vẫn còn lưu danh hậu thế.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2011(Xem: 6984)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4082)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 5645)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 5798)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5114)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4448)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 4231)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4260)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 5678)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
24/02/2011(Xem: 6445)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567