Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Yếu tố cần thiết cho một giảng sư

09/08/201316:45(Xem: 6139)
Yếu tố cần thiết cho một giảng sư

tinh_minh_dncYẾU TỐ CẦN THIẾT CHO MỘT GIẢNG SƯ

TỊNH MINH

Theo thông lệ, sứ mạng của giảng sư là nói, là diễn thuyết giáo lý hay vấn đề được ấn định; còn vai trò của thính chúng là nghe, là tiếp thu và nhận định nội dung biện thuyết. Hằng ngày, chúng ta nghe thấy rất nhiều loại thông tin trên đài hay trên màn ảnh truyền hình, như văn học nghệ thuật, quảng cáo tiếp thị, chiến tranh hòa bình, y tế giáo dục, tôn giáo tín ngưỡng, thế giới đó đây v.v…, nhưng làm thế nào để có một bài thuyết giảng hấp dẫn, đượm tính thuyết phục trước thính chúng? Đây là vấn đề dày công rèn luyện, liên quan trực tiếp đến quá trình chuẩn bị bài giảng, kỹ năng diễn thuyết và đặc điểm hàm tàng của giảng sư trên pháp tòa.

1. Đặc Điểm Hàm Tàng:

Giảng sư khi lên bục giảng thấy tự nhiên, bình tĩnh, và hưng phấn trước thính chúng là nhờ có những đặc điểm như sau:

1.1 Tư tưởng mới lạ: Nhiều người nói năng lưu loát, quảng diễn tài hoa, nhưng nội dung hạn chế, kinh viện sáo mòn, khó gây ấn tượng trước thính chúng. Giảng sư sâu sắc, giàu kinh nghiệm, khéo chinh phục nhân tâm, là người đọc nhiều, hiểu rộng, thường nội quán tư duy, khám phá ra những ý tưởng mới lạ, vi tế, ẩn tàng trong kinh văn, giáo điển, nhất là biết cách vận dụng ngôn ngữ đa dạng, đủ sức chuyển tải ngữ nghĩa đã được sàng lọc. Giảng sư tài ba quả thực là những nhà tư tưởng thâm thúy.

1.2 Dàn dựng tư duy: Giảng sư được ưu ái là người khéo sắp xếp ngôn từ, nội dung truyền đạt theo một hệ thống nhất quán, lôgic; tức là trình bày thông tin, quan điểm, hay giáo điển dưới dạng diễn dịch hay quy nạp; minh họa bằng hình ảnh hay truyện tích v.v… Có thể nói kỹ năng then chốt trong các khóa đào tạo diễn thuyết là kỹ thuật dàn ý liên hoàn, mạch lạc, hợp lý.

1.3 Chọn từ đạt ý: Theo Jonathan Swift: “Style is proper words in proper places.” (Văn phong là nghệ thuật vận dụng ngôn từ phù hợp trong mọi môi trường thích ứng.) Nói cách khác, ngôn ngữ chọn lọc và cách sắp xếp chúng đã tạo thành văn phong riêng biệt của từng giảng sư. Nó có thể cực kỳ đơn giản hay đậm nét thi ca. Và, đã làø giảng sư chuyên nghiệp thì hẳn là khá quen với cách chọn từ gợi ý.

1.4 Quảng diễn tài tình: Một trong những trọng trách của giảng sư là trình bày nội dung pháp thoại hay tư tưởng chuyên ngành bằng mọi ngôn ngữ tự thân: hành vi, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười, âm thanh, động tác v.v… sao cho hài hòa, sinh động, phù hợp với môi trường diễn thuyết. Thính giả phần lớn sẽ đánh giá sự thành công hay thất bại của buổi diễn thuyết trên khả năng quảng diễn, bất kể đề tài nào. Do đó, nếu giảng sư thích thú và quán triệt chủ đề thì mọi hình thức phô diễn đều phản ánh nhịp nhàng, linh hoạt với nội dung truyền đạt. Nắm vững vấn đề thì thuyết giảng lưu loát.

1.5 Dày công nghiên cứu: Woodrow Wilson đã có lần thừa nhận rằng: “I use not only all the brains I have, but all that I can borrow.” (Tôi không chỉ sử dụng đầu óc vốn có của tôi, mà tôi còn phải tận dụng tất cả những gì tôi có thể vay mượn được.” Tư tưởng cao siêu huyền diệu cũng cần được xây dựng trên cơ sở tri kiến hiện thực. Mọi công trình văn minh, văn hóa đều nhắm đến việc phát huy trí tuệ và mang lại thanh bình, tươi đẹp cho con người tại thế. Giảng sư nhiệt huyết, thân thiết với ngành nghề là người thường xuyên sử dụng thư viện, đọc sách tham khảo, theo dõi báo chí, cập nhật thông tin, và hiệu quả nhất là sao chép, ghi chú, phân loại tư liệu theo từng đề mục.

1.6 Trưởng dưỡng đạo hạnh: Giảng sư đạo hạnh thường có ý thức tự trọng và nói đúng sự thật, tức là không vì thành kiến, tín ngưỡng, hay hệ phái môn phong mà bảo thủ cố chấp, dụng tâm xuyên tạc. Giảng sư đạo hạnh sử dụng tư liệu rất công minh, chính xác, không bao giờ tùy nghi dựng chuyện để tô điểm cho mục tiêu ẩn tàng của mình. Tóm lại, giảng sư đạo hạnh là người nói năng nhu nhuyến, cẩn trọng, và đúng sự thật. Thế Tôn từng dạy môn đệ của Ngài:

Tỳ kheo điều phục lưỡi,

Khiêm ái không tự cao,

Diễn giải nghĩa kinh điển,

Lời êm dịu ngọt ngào.

(PC. 363)

2. Chuẩn Bị Bài Giảng:

Nói năng giao tiếp là nếp sinh hoạt tự nhiên, hằng ngày của mọi người trong cộng đồng xã hội, nên ta ít khi dừng lại để phân tích, đánh giá những gì ta đã nói. Giờ đây, ngồi bên bàn giấy, trầm tư suy nghĩ về đề tài sắp trình bày, giảng sư không khỏi hoang mang tự hỏi rằng mình phải làm gì trước tiên:

2.1 Nhắm đến thính chúng: Tại sao phải đặt trọng tâm vào thính chúng, không tập trung suy nghĩ về việc tuyển chọn chủ đề, thiết lập dàn ý, hay sưu tầm tư liệu? Sự thật đơn giản là vì thính chúng sẽ là nguồn lực xung động, ảnh hưởng trực tiếp đến đề tài và các bước tiến hành diễn thuyết của giảng sư sau đó. Đánh giá đúng trình độ lĩnh hội và ước vọng của thính chúng là bắt trúng mạch, đi đúng hướng, và dễ đạt đến mục tiêu diễn thuyết. Chính nhu cầu, quan điểm, tôn giáo, tín ngưỡng và cá tính của thính chúng giữ vai trò chủ đạo trong việc giúp giảng sư chuẩn bị và trình bày bài giảng.

2.2 Giới hạn chủ đề: Đã đặt trọng tâm vào thính chúng thì dứt khoát phải giới hạn chủ đề. Giảng sư không nên tùy hứng, chọn những chủ đề bao hàm, khái quát, mà phải giới hạn chúng theo khả năng chuyên môn và quá trình hoạt động của mình. Một chuyên gia kinh tế khó có thể quán triệt đường hướng giáo dục hay sách lược chính trị của một quốc gia. Một pháp sư quán thông Tam tạng giáo điển cũng không thể nào thuyết giảng rốt ráo bộ kinh Pháp Hoa trong một buổi, mà ít ra phải 28 buổi cho 28 phẩm. Chủ đề diễn thuyết hấp dẫn và đạt hiệu quả cao thường phát xuất từ kinh nghiệm cá nhân. Giới hạn chủ đề còn có tác dụng phù hợp với thời hạn và môi trường diễn thuyết.

2.3 Xác định mục đích: Theo quan niệm thông thường, một khi đã chọn chủ đề thì bắt đầu tiến hành công tác nghiên cứu. Tuy nhiên, trước khi sưu tầm tài liệu, giảng sư nên xác định mục đích diễn thuyết theo hướng phổ quát hay đặc biệt, tức là để truyền đạt thông tin, khơi gợi thuyết phục, hay giúp vui giải trí. Tuy phân loại tách bạch như thế nhưng đôi lúc chúng cũng được thể hiện đan xen với nhau.

2.4 Xây dựng ý chính: Ý chính là trọng tâm tư tưởng của một đoạn, hay một đề tài diễn thuyết. Ý chính xác định nội dung cốt lõi của chủ đề. Giảng sư uyên bác thường xây dựng ý chính thành những câu, những đoạn ngắn gọn, hàm súc, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ đọng lại trong tâm tư tình cảm của thính chúng; để rồi từ đó triển khai, diễn giải, minh họa thế nào cho phù hợp với thời hạn, chủ đề, và khung cảnh diễn thuyết. Nói cách khác, thời hạn và chủ đề quyết định phạm vi dàn dựng ý chính.

2.5 Thu thập tài liệu: Sau bước hình thành ý chính là tiếp đến tiến trình thu thập thông tin hỗ trợ cho mục tiêu diễn thuyết. Tư liệu dẫn chứng càng nhiều, nội dung diễn thuyết càng phong phú, và tất nhiên là thính giả càng tin tưởng, thích thú. Danh ngôn có câu: “An ounce of illustrations is worth a ton of talk.” (Một lượng minh họa đáng giá một tấn đàm thuyết.) Giảng sư nên sử dụng những tư liệu sống động, thực tiễn, gắn liền với phong tục, tập quán, và nếp sinh hoạt hằng ngày của họ. Những mẩu chuyện nho nhỏ nhưng hàm chứa hương vị sâu lắng của thế nhân rất dễ thu hút thính chúng đến tận cân não. Tóm lại, đối với hội chúng, bằng chứng cụ thể hấp dẫn hơn ý tưởng trừu tượng, bởi vì chúng không chỉ đáp ứng nhu cầu của thị giác mà còn kích thích được tiềm năng hoạt dụng của xúc giác, thính giác, khứu giác, và vị giác.

2.6 Tổ chức bài giảng: Một nhà hiền triết Tây phương nói: “If effort is organized, accomplishment follows.” (Nếu nỗ lực tổ chức, thành tựu liền theo sau.) Còn tục ngữ Trung Quốc thì: “Cuộc hành trình xa xôi vạn dặm, điểm khởi đầu bằng một bước chân.” Nội dung hai câu này cho thấy rằng quyết đi thì đến đích, thực hành ắt thành công. Ý niệm diễn thuyết vừa khởi lên thì công tác nghiên cứu, tổ chức, dàn dựng bài giảng cũng bắt đầu từ đó. Bài giảng được cấu trúc chặt chẽ, mạch lạc, lôgic thì giảng sư an tâm, tự tin, bình tĩnh, và nhạy bén trên pháp tòa; còn thính chúng thì dễ tiếp thu nội dung tư tưởng và hài lòng với ước vọng của họ.

Tóm lại, để cho bài diễn thuyết hay pháp thoại có chất lượng, đạt hiệu quả, giảng sư nên nhớ lời khuyên của tiềân nhân: “Hãy nói với thính chúng những gì mà bạn định nói trong nhập đề, trong thân bài, và trong kết luận.” Nói chung là phải nhất quán.

2.7 Tích cực thao luyện: Như trên đã nói, thuyết giảng là một loại hình hoạt động sân khấu, tức là giữa người nói và người nghe có mối quan hệ hỗ tương chặt chẽ. Thuyết giảng cũng giống như diễn xuất hay trình diễn một vở tuồng; mục đích của chúng là mang lại nguồn vui tinh thần hay kích động tư duy của khán thính giả. Do đó, mỗi diễn giả hay giảng sư phải là một nghệ sĩ, một diễn viên trên sân khấu. Và đã là diễn viên thì phải khổ công luyện tập, nếu muốn nâng cao tay nghề và được quần chúng hoan nghênh, mến mộ. Quy luật dành cho diễn viên cũng giống như phép tắc của nghề thợ mộc: “Hai lần đo, một lần cưa” (Measure twice, saw once). Giảng sư càng luyện tập, thao diễn, khi đứng trên bục giảng, càng tự nhiên, nhập diệu. Và cách rèn luyện hiệu quả nhất là dụng tâm thể hiện phong thái, cử chỉ, ngữ điệu y hệt như đang diễn giảng trên pháp tòa.

2.8 Tuyên thuyết chủ đề: Đây là bước cuối cùng trong tiến trình chuẩn bị bài giảng. Sau khi được giới thiệu, giảng sư nên bình tĩnh, tự tin, và thư thả tiến ra trước diễn đàn; tươi cười, đảo mắt nhìn một lượt khắp thính chúng, rồi cất lời khai mạc. Nếu là ứng khẩu thì phải quán triệt dàn bài, nhớ lượng thời hạn. Nên nói với âm vực rõ ràng, tự nhiên và đủ lớn cho thính chúng dễ nghe, dễ tiếp nhận. Đặc biệt là thường xuyên đưa mắt tiếp xúc thính chúng để kịp thời điều chỉnh ngôn ngữ và sắc thái diễn thuyết.

3. Biện Pháp Trấn An:

Lần đầu tiên đứng trên diễn đàn hay pháp tòa, giảng sư nào cũng cảm thấy ít nhiều băn khoăn, hồi hộp. Và một cuộc điều nghiên mới đây cho thấy rằng tâm trạng lo sợ diễn giảng trước thính chúng được liệt vào hạng số một đối với mọi người, chiếm 41%, trong khi sợ chết chỉ chiếm 6%. Nhiều công trình nghiên cứu nữa cũng cho thấy rằng khoảng 20% sinh viên rất ái ngại giao tiếp với người khác. Tuy nhiên, đã có hiện tượng phát sinh thì hẳn phải có biện pháp khắc phục. Sau đây là một số gợi ý có thể giúp giảng sư chế ngự được tính rụt rè, e ngại trước hội chúng.

3.1 Biết rõ thính chúng: Để được bình tĩnh, tự tin và biến hóa trên bục giảng, giảng sư phải nắm được giới tính, trình độ và nguyện vọng của người nghe. Nhìn thấy nét phản ứng thể hiện qua gương mặt và hành vi của thính chúng, giảng sư dễ uốn nắn lại phong cách và ngôn từ diễn thuyết. Giảng sư hoạt bát, xảo diệu là người giỏi lượng định và thích ứng với nhu cầu mong đợi của thính chúng.

3.2 Chuẩn bị cẩn trọng: Mô thức tiêu biểu cho các trường hợp diễn giảng tự nhiên, lưu loát, hấp dẫn và chan hòa ấn tượng là: “Chuẩn bị nội dung diễn giảng càng chu đáo bao nhiêu thì giảng sư càng thấy thoải mái, tự tin, và thành quả thuyết giảng càng được tốt đẹp bấy nhiêu.” Chuẩn bị viên mãn có nghĩa là dày công nghiên cứu chủ đề, sắp xếp tư liệu, và thao diễn nhiều lần trước khi lên pháp tòa diễn giảng.

3.3 Tuyển chọn chủ đề: Giảng sư cảm thấy ít băn khoăn, lo lắng khi đứng trước thính chúng là nhờ quán triệt nội dung chủ đề và ứng dụng tiềm lực chuyên môn của mình. Giảng sư không nên phiêu lưu mạo hiểm, cường điệu tuyên dương với những đề tài mới lạ, thời thượng, vượt ngoài tầm hiểu biết hay chuyên ngành của mình. Suy diễn theo cảm tính riêng tư là hàm hồ thô thiển, nếu không muốn nói là xem thường trình độ tư duy của thính chúng. Tinh thần hưng phấn với ngôn ngữ điêu luyện chỉ khi nào chủ đề gắn liền với cuộc sống và môi trường hoạt động của giảng sư.

3.4 Diễn tập như thật: Khi luyện tập, giảng sư hãy tưởng tượng rằng mình đang diễn giảng thật sự trên pháp tòa. Trước tiên là chỉnh đốn trang phục, từ chỗ ngồi đứng lên tự nhiên, từ từ tiến ra hội trường, bước lên bục giảng, đưa mắt tươi cười nhìn thính chúng một lượt, sau đó cất lời trịnh trọng chào mừng quan khách, thính chúng, và bắt đầu vô đề diễn giảng. Thường xuyên luyện tập diễn giảng sẽ giúp giảng sư vững tâm, tự tin, biến hóa, nếu không muốn nói là đạt đến trạng thái “vô công dụng xứ” trước thính chúng.

3.5 Quán triệt nhập đề, kết luận: Giảng sư thường thấy băn khoăn, xúc động nhất vào thời điểm khai mở diễn đàn, hay giới thiệu chủ đề. Kinh nghiệm cho thấy rằng nói năng lưu loát, diễn đạt khúc chiết ngay từ đầu là thủ thuật chinh phục lòng người, và kích hoạt tư duy, uy lực trên bục giảng. Do đó, vào đề phải mạch lạc, trôi chảy, và tốt nhất là phải nằm lòng. Kết luận cũng thế. Phải dừng lại đúng lúc. Kết luận có duyên, có hậu sẽ là lối ra êm ả của giảng sư, và món quà ưu ái cho thính chúng.

3.6 Mường tượng thành công: Các công trình nghiên cứu cho thấy rằng cách chế ngự tâm trạng băn khoăn, lo sợ tốt nhất đối với diễn giả là hãy tưởng tượng ra một khung cảnh trang trọng với hàng ngàn thính chúng đang chăm chú theo dõi từng phong cách trình bày và ngôn từ diễn đạt của mình trên diễn đàn. Hình dung ra bóng dáng thao thao, hấp dẫn của mình trước thính chúng sẽ giúp giảng sư bình tĩnh, tự tin, và có thừa nghị lực với mọi thử thách.

3.7 Chuyển vận hơi thở: Một trong những triệu chứng cho thấy tâm trạng hồi hộp, lo sợ là sự thay đổi hơi thở và nhịp tim của chủ thể. Người nói năng bồn chồn, xúc động thường hay thở ngắn và nông. Để chế ngự nhược điểm này, trước khi vào đề tài diễn thuyết, giảng sư nên hít thở từ từ và thật sâu vài ba lần. Không ai phát hiện được phương pháp thầm lặng, vi tế, và cực kỳ hiệu quả trong việc kết nạp năng lượng mà bạn đang vận dụng thư giãn trên ghế ngồi hay lối đi của bạn.

3.8 Phong thái bình tĩnh: Bằng chứng cho thấy tâm trạng xúc động thế nào thì hành động lúng túng thế đó. Vì vậy, nếu muốn vững tâm, kiên định thì phải hành động bén nhạy, dứt khoát. Để tránh cử chỉ vội vã, hấp tấp, ảnh hưởng đến tâm lý đăng đàn, giảng sư nên đến nơi diễn thuyết trước giờ qui định ít nhất là mười lăm phút. Thư giãn thoải mái, giao tiếp chừng mực, tránh hưng phấn huyên thuyên với mọi người chung quanh. Trong khi chờ đợi được giới thiệu, giảng sư nên giữ tư thế nghiêm trang, tự nhiên, bình tĩnh. Đảo mắt nhìn thính chúng một lượt, trụ ánh mắt tại một nơi chứa chan thiện cảm, rồi vào đề thoải mái. Nên nhớ: Hãy bình tĩnh trong tư duy, trong hành động, và trong cảm xúc.

3.9 Chuyên tâm nhất quán: Càng suy nghĩ, lo lắng về buổi diễn thuyết, mức độ hồi hộp, bồn chồn càng gia tăng. Tốt hơn là chỉ nghĩ đến những gì ta sắp trình bày, loại trừ tạp niệm. Vài phút trước khi bắt đầu diễn thuyết, giảng sư hãy dùng định lực tư duy quét qua một lượt các trọng điểm ở nhập đề, thân bài, và kết luận. Tóm lại, hãy tập trung đầu óc vào tư tưởng diễn thuyết hơn là vào các mối băn khoăn, lo sợ.

3.10 Ước vọng đăng đàn: Kinh nghiệm thuyết giảng càng nhiều, tâm trạng lo lắng càng ít, và khả năng linh hoạt, biến hóa trên diễn đàn càng cao. Sau vài lần thuyết giảng thành công, tâm trạng hưng phấn và tự tin của giảng sư càng thêm củng cố. Đúng là: Thành công rạng rỡ dung nghi, tự tin là lực phát huy sở trường. Giảng sư nên thường xuyên quán chiếu vai trò diễn giảng, và thầm cảm ơn khi được thỉnh giảng, vì đó là cơ hội cải tiến tư duy và phát huy sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, lợi lạc hữu tình của mình.

4. Nguyên Lý Biện Thuyết:

Theo Phật giáo, là giảng sư thì phải vận dụng được bốn nguyên lý biện thuyết mà thuật ngữ thiền môn gọi là Tứ Tất Đàn. Tất đàn (siddharta) có nghĩa là thành tựu. Sứ mệnh duy nhất của giảng sư hay pháp sư là xây dựng thành tựu đức tin chánh pháp và bồi dưỡng trí tuệ quán chiếu cho thính chúng, Phật tử.

4.1 Thế giới tất đàn: thế giới hiện tượng, bao gồm những thực tại cụ thể, có thật, phổ quát, và mọi người đều công nhận như thế. Giảng sư lịch lãm, giàu kinh nghiệm, thường hướng dẫn thính chúng thông hiểu Phật pháp, phát huy tuệ giác qua từng thực trạng trên đời như lời xác quyết của Lục tổ Huệ Năng trong kinh Pháp bảo đàn:

“Phật pháp tại thế gian

Bất ly thế gian giác

Ly thế mịch bồ đề

Hiệp như cầu thố giác”.

(Phật pháp chan hòa khắp thế gian

Chẳng xa trần thế chứng niết bàn

Xa rời cuộc lữ cầu chánh giác

Như tìm sừng thỏ giữa nhân gian.)

4.2 Vị nhân tất đàn: thích nghi với thính chúng. Giảng sư phải tùy theo căn cơ (khế cơ) và trình độ nhận thức của thính chúng (khế lý) mà tuyển chọn chủ đề, hệ thống tư tưởng, quảng diễn ngôn từ, và thể hiện phong cách. Ví dụ cùng một chủ đề pháp thoại nhưng nội dung và phương pháp trình bày của giảng sư có phần uyển chuyển, linh hoạt, mục đích là đáp ứng được nhu cầu và ước vọng của thính chúng.

4.3 Đối trị tất đàn: hàng phục đối phương. Giảng sư, pháp sư, đạo sư thường dùng ngôn ngữ và thí dụ đối lập, dĩ nhiên là phải nhu nhuyến và hữu lý, để minh giải khái niệm hay khai thông vấn đề. Ý nghĩa đối trị được thể hiện rõ nét qua bài kệ:

Từ bi thắng sân hận

Hiền thiện thắng hung tàn

Bố thí thắng xan tham

Chân thật thắng hư ngụy.

(PC. 223)

Còn thiền sư, tổ sư thường dùng những hành vi, cử chỉ thẳng thắn hơn, mãnh liệt hơn để khống chế vọng niệm, hàng phục biên kiến của môn đồ hay hành giả, như tổ Đan Hà thản nhiên chẻ nhỏ tượng Phật ra đốt sưởi ấm với mật ý triệt tiêu kiến chấp, khai sáng huệ tâm cho thầy giám tự. Điều quan trọng và nên nhớ là thể cách đối trị chỉ được vận hành trên bình diện tham thông và cộng hưởng.

4.4 Đệ nhất nghĩa tất đàn: mục tiêu chuyển mê khai ngộ. Đây là yếu tố tiên quyết và tối hậu cho đạo nghiệp hoằng hóa của giảng sư. Hành vi, ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ của giảng sư hay pháp sư trên pháp tòa chỉ có ý nghĩa khi chúng chuyển tải được chân lý giải thoát đến từng ánh mắt, nụ cười của thính chúng.

Tứ tất đàn là nền tảng lý luận, phân tích, quảng diễn mà Thế Tôn đã thiết lập và ứng dụng trong suốt 45 năm hóa độ chúng sanh. Ngài đã sử dụng nguyên lý đối trị tất đàn mà nhiếp phục được 62 hệ phái thần học khác nhau ở Ấn Độ lúc bấy giờ, mang lại nguồn hỷ lạc và ý thức trách nhiệm tự thân cho toàn nhân loại đến tận ngày nay.

5. Năng Lực Biện Thuyết:

Nhưng để vận dụng hiệu quả Tứ tất đàn, giảng sư cũng phải quán triệt và thường xuyên nuôi dưỡng bốn năng lực biện thuyết lưu loát, tự tại, gọi là: Tứ vô ngại trí, Tứ vô ngại biện, hay Tứ vô ngại giải; gọi tắt là: Tứ Vô Ngại. Vô ngại tức là thông suốt, không bị ngăn ngại, vướng mắc trong quá trình lý luận, biện chứng.

5.1 Pháp vô ngại: quán thông giáo pháp. Điều kiện ắt có cho mỗi giảng sư, pháp sư là phải phối hợp được tư tưởng tinh yếu của ba tạng thánh giáo: Kinh – Luật – Luận với ba lĩnh vực nghiên cứu: Giới – Định – Tuệ, gọi là Tam vô lậu học, tức là ba môn học giúp học viên phát huy trí tuệ, phá vỡ vô minh, hàng phục vọng tâm, thoát ly khổ lụy. Kinh thuộc về Định học, Luật thuộc về Giới học, Luận thuộc về Tuệ học.

5.2 Nghĩa vô ngại: thông đạt nghĩa lý. Một khi giảng sư đã nghiền ngẫm và thông hiểu giáo pháp thì nghĩa lý biện giải rốt ráo, phù hợp trình độ căn cơ, giải tỏa tâm trạng hoài nghi, và tất nhiên là nâng cao được khả năng nhận thức. Ví dụ pháp sư có thể cho thính chúng thấy rõ ý nghĩa hỗ tương liên đới của Giớ-Định-Tuệ với tham-sân-si. Có Giới, có Định, có Tuệ thì không có tham, sân, si; và ngược lại, có tham, có sân, có si thì không có Giới, Định, Tuệ. Vậy thì, theo lý duyên khởi: do cái này sanh nên cái kia sanh, do cái này diệt nên cái kia diệt (thử sanh tắc bỉ sanh, thử diệt tắc bỉ diệt), ta có thể khẳng định: Tham, sân, si chính là Giới, Định, Tuệ; và Giới, Định, Tuệ chính là tham, sân, si. Phiền não tức là bồ đề. Niệm trước mê: mặt mũi chúng sanh, niệm sau ngộ: diện mục Phật Tổ. Tâm-Phật-Chúng sanh: tam vô sai biệt. Một khi sự lý dung thông thì diệu pháp hiển hiện.

5.3 Từ vô ngại: ngôn từ tài hoa và nhu nhuyến. Giảng sư không những chuyên tâm nghiên cứu giáo pháp, luận giải nghĩa lý thâm uyên, mà còn phải biết cách tiếp thu ngôn từ hiện đại, thâu hóa bút pháp đa phương, nhất là kỹ thuật vận hành máy móc trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, khoa học kỹ thuật đăng quang, làm cho vốn từ giao tiếp đương đại được ngày thêm phong phú, dễ thích nghi với mọi tầng lớp Phật tử trong khi thuyết pháp.

5.4 Lạc thuyết vô ngại: hoan hỷ truyền bá chánh pháp. Mục đích và sứ mạng của Tăng Ni là tu đạo giải thoát và hóa độ quần sanh. Giảng sư nên hân hoan đảnh lễ pháp giới hữu tình khi thấy mình được cung thỉnh đăng đàn thuyết pháp. Chính nhờ hạnh nguyện vị tha, rộng ban pháp thí mà bước chân giảng sư ngày thêm vững chắc, tâm lượng ngày thêm rỗng rang, và trí tuệ ngày thêm biện tài vô ngại.

Tứ tất đàn và Tứ vô ngại đích thị là hành trang tối cần và tư lương thiết yếu cho giảng sư trên suốt lộ trình hoằng dương chánh pháp.

Trên đây mới chỉ là gợi ý một số yếu tố cơ bản cho một giảng sư. Để đạt được hiệu quả cao trong lãnh vực biện thuyết, diễn giảng trước thính chúng, giảng sư phải tự thân nỗ lực, rèn luyện, và sáng tạo ra những chiêu thức mới lạ, đượm tính thuyết phục; nhất là phải luôn luôn ghi nhớ và phát huy tôn chỉ: “Tâm thông tức thuyết thông.”

(Tịnh Minh, tham luận, trình bày tại Đại Hội Hoàng Pháp, hội trường chùa Vĩnh Ngiêm, sáng ngày 25/01/2007, và đã đăng trong Kỷ Yếu Tọa Đàm - Sứ Mệnh Hoằng Pháp Thời Hiện Đại.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/02/2015(Xem: 7192)
Trong một thập niên qua, trong hàng chục bài pháp thoại cho Tăng Ni và Phật tử đăng trên trang nhà Chùa Giác Ngộ[1] và trang nhà Youtube[2], tôi thường khẳng định rằng khái niệm “84,000 pháp môn” là do Phật giáo Trung Quốc đặt ra, chứ trên thực tế, đức Phật chỉ truyền bá con đường duy nhất là Tứ thánh đế, mà cốt lõi là nhận diện khổ đau, truy tìm nguyên nhân của nỗi khổ, niềm đau và thực tập bát chính đạo để đạt được niết-bàn ngay trong kiếp sống hiện tại này.
24/02/2015(Xem: 18029)
Lúc tôi viết những dòng về cuốn sách của Linh mục Nguyễn Văn Thư, thì bom đạn đang tiếp tục nổ trên một phần của trái đất, nhân mạng con người bị xem như cỏ rác. Hệ lụy nầy phải chăng có nguồn gốc từ các tôn giáo độc thần còn sót lại? Nhân loại ít có những ngày vui; phần lớn là chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh mà nhiều trường hợp y học tân tiến cũng đành chịu bó tay.
22/02/2015(Xem: 6104)
Đây là câu hỏi lớn, liên hệ đến quyết định của Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Do vậy, việc trao đổi dưới đây chỉ là quan điểm cá nhân của riêng tôi. Trước hết, theo tôi, chúng ta phải mạnh dạn đánh giá lại giá trị và giới hạn của các pháp môn được Phật giáo Việt Nam tiếp nhận từ Phật giáo Trung Quốc. Khi đánh giá bằng các thống kê xã hội học cụ thể, ta sẽ rút ra được những kết luận nhất định. Vào năm 1945, dân số của nước Việt Nam khoảng 25 triệu người, trong đó Phật tử chiếm 80%. Đến năm 2013 chúng ta có trên dưới 90 triệu dân và số lượng Phật tử chỉ còn lại 38%. Đó là dữ liệu giúp ta đánh giá cách thức làm đạo của Phật giáo. Chúng ta phải thừa nhận rằng không phải cái gì của Phật giáo Trung Quốc truyền bá đều đúng và cần được tôn thờ như chân lý. Thước đo bằng thống kê trên sẽ giúp ta tránh được những quan điểm trái ngược: theo hay không theo, chịu ảnh hưởng hay không chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Quốc.
16/02/2015(Xem: 10376)
Bài học cho Việt Nam Những thái độ vô tâm, hờ hợt trước tình hình đất nước của chúng ta sẽ góp phần biến Việt Nam thành Tây Tạng thứ 2, âm mưu bành trướng của Bắc Kinh đang hướng về Việt Nam, chuyện này rồi sẽ xảy ra nếu mọi người vẫn chưa kịp thức tỉnh!
10/02/2015(Xem: 7879)
1) Khuynh hướng 1 xuất phát từ Trung Quốc trong giai đoạn mà các nhà Nho nắm vai trò lãnh đạo chính trị của Đại lục muốn dành cái quyền ngự trị quan điểm tư tưởng triết học tôn giáo của họ trên bề mặt nhận thức văn hóa và đời sống tinh thần của cư dân họ. Chủ trương họ đưa ra là Tam Giáo Đồng Nguyên. 2) Khuynh hướng 2 cho rằng tôn giáo nào cũng dạy con người “lánh ác làm lành” và đạo Phật cũng là một trong các tôn giáo như thế. Từ đó, với mục đích “Dĩ hòa vi quý” trong quá trình làm đạo chúng ta dễ dàng bị rơi vào các cái bẫy đó và cố đánh đồng bằng cách hạ thấp đạo Phật xuống để đẳng thức hóa với các tôn giáo vốn khác với đạo Phật.
30/01/2015(Xem: 6344)
"Việc chém con lợn đang sống khỏe mạnh là lối đối xử tàn ác, nó làm trơ lì cảm xúc của người xem, đặc biệt là trẻ em", ông Nguyễn Tam Thanh, cán bộ Phúc lợi Động vật, Tổ chức Động vật châu Á, trao đổi với VnExpress ngày 29/1.
30/01/2015(Xem: 22436)
“Việt Nam Thi Sử Hùng Ca” được tôi (TNT Mặc Giang) sáng tác vào tháng 9 năm 2003. Từ năm 2003-2005, tác phẩm này do tôi tự in ấn nhiều lần bằng hình thức Photocopy, biếu tặng những người quen biết và người thân tại Việt Nam và tại Úc. Tôi dự tính xuất bản chính thức quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, nên đã nhờ SG. Phạm Trần Quốc Việt viết Lời giới thiệu từ năm 2005. Vì những trục trặc ngoài ý muốn, nhất là gặp khó khăn về tài chính, tôi đã chưa thể xuất bản chính thức. Ông Phạm Trần Quốc Việt nay vẫn còn khỏe mạnh. Lời giới thiệu của ông tôi vẫn tôn trọng giữ nguyên trong ấn bản internet tại trang nhà Hương Đạo.[1] Thực ra, từ mười năm qua, trang nhà Lương Sơn Bạc online[2] tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của tôi, đúng với nguyên văn của tôi sáng tác.
22/01/2015(Xem: 11169)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộ và Vãng sanh khác nhau thế nào, và có gì chống trái giữa hai từ ngữ ấy? Vãng sanh là mục tiêu chân chánh và khẩn thiết nhất của những người hướng đến đạo giải thoát và là ước mong nhiệt thành của hành giả Niệm Phật, sau những năm tháng tu tập.
20/01/2015(Xem: 5886)
Không thể phủ định rằng giáo dục Phật giáo dựa trên ba phương diện minh triết Phật dạy bao gồm giáo dục đạo đức (giới), giáo dục chuyển hóa (thiền) và giáo dục tri thức giải quyết vấn nạn (tuệ). Người được đào tạo trong trường Phật học, ngoài kiến thức thông thường còn thực tập chuyển hóa, mang tính ứng dụng thực tiễn và có khả năng giải quyết các nỗi khổ niềm đau của bản thân và tha nhân. Để nền giáo dục Phật giáo tại Việt Nam đáp ứng được các mục đích nêu trên, chương trình đào tạo Phật học tại Việt Nam cần có sự thích ứng với xu thế giáo dục Phật học trên thế giới là điều không thể bỏ qua. Trong bài viết này, tôi trình bày vài nét về a) Bản chất đào tạo Phật học, b) Nền Phật học Tây Tạng và c) Hướng đến cải cách giáo dục Phật học tại Việt Nam. Các vấn đề trên chỉ được nêu ra một cách khái quát, chưa đi sâu vào việc phân tích.
15/01/2015(Xem: 5312)
Vụ nhật báo Người Việt kiện tuần báo Saigon Nhỏ về mạ lỵ phỉ báng được khởi sự từ tháng 9 năm 2012, nhưng đến tháng 12 năm 2014 mới được đưa ra xét xử. Sau một phiên tòa kéo dài bốn tuần, ngày 30.12.2014, tòa tuyên phạt bà Hoàng Được Thảo và tuần báo Saigon Nhỏ 4.500.000 USD. Các cộng đồng người Việt hải ngoại trên thế giới đều xôn xao. Nhiều người đã điện thoại hay gởi email cho chúng tôi và hỏi: Tại sao ra nông nỗi này? Báo Saigon Nhỏ là báo chống cộng mà? Có gì bí ẩn đàng sau?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]