Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hồi thứ năm: Thiền Minh Triết là gì?

08/11/201212:16(Xem: 10378)
Hồi thứ năm: Thiền Minh Triết là gì?

Mổ xẻ cái gọi là Thiền Minh Triết của “đạo sư” Duy Tuệ

Minh Đức Triều Tâm Ảnh


Hồi thứ năm: Thiền Minh Triết là gì?


Đấy là tiêu đề của ông Duy Tuệ.

Rồi ông giảng:

“- Là phương pháp kích hoạt (activate) không gian tĩnh lặng vô tận của đầu óc để quan sát mọi dấu hiệu hay hiện tượng đang xảy ra và vận hành trong chính nó như các suy nghĩ, ý tưởng, đánh giá, suy luận, hơn thua, thèm thuồng, nhớ tưởng về chuyện đã qua, tưởng tượng chuyện sắp đến. Làm như vậy, sẽ lấy lại được bầu trời thanh bình dễ chịu và minh mẫn, ứng xử tự nhiên và thành công, phù hợp mọi hoàn cảnh mà đầu óc vẫn luôn gìn giữ được sự hồn nhiên.

Là thường xuyên nhận biết các cảm xúc (emotion) như lo lắng, bồn chồn, khó chịu, đau buồn, tức giận, thất vọng, tuyệt vọng… đang chạy trên cơ thể để qua đó chúng mất đi và đầu óc trở lại bình yên dễ chịu và tỉnh táo, sáng suốt trước mọi biến động của hoàn cảnh.

Là các phương pháp thực hành để dừng sự tin tưởng hay lòng chấp của mình vào ý nghĩ hay ý tưởng trong đầu óc. Khi đó, một không gian tỉnh thức vô tận sẽ mở ra và cho chúng ta mọi trí tuệ cần thiết để tồn tại trong niềm vui hòa bình và hạnh phúc thật sự! Kết quả của đời sống Minh Triết là đầu óc lúc nào cũng bình yên, an lạc và một tình yêu không bị bất cứ điều kiện nào của cuộc sống hình thức và ý tưởng chi phối. Tình yêu này sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt hảo của con người! Tình yêu này cũng cho con người ấy hạnh phúc vô tận bởi sự chứng ngộ tình yêu chân thật, chứ không phải tình yêu theo ý nghĩ và thoả mãn ý nghĩ của mình.

Là bí quyết thưởng thức niềm vui và hạnh phúc bên trong tâm hồn.Mục đích chung nhất của Thiền Minh Triết là mở ra không gian vô tận trong đầu óc của mình”.

Quý vị đọc đi đọc lại xem. Đoạn văn này gồm hai phần. Phần một, nhân tu tập:

“Là kích hoạt (activate) không gian tĩnh lặng vô tận của đầu óc để quan sát mọi dấu hiệu hay hiện tượng đang xảy ra... ví dụ như suy nghĩ, ý tưởng, đánh giá, suy luận, hơn thua, thèm thuồng, nhớ tưởng về chuyện đã qua, tưởng tượng chuyện sắp đến. Là thường xuyên nhận biết các cảm xúc (emotion) như lo lắng, bồn chồn, khó chịu, đau buồn, tức giận, thất vọng, tuyệt vọng...”

Và phần hai, quả tu tập:

“Làm như vậy, sẽ lấy lại được bầu trời thanh bình dễ chịu và minh mẫn, ứng xử tự nhiên và thành công, phù hợp mọi hoàn cảnh mà đầu óc vẫn luôn gìn giữ được sự hồn nhiên. Khi đó, một không gian tỉnh thức vô tận sẽ mở ra và cho chúng ta mọi trí tuệ cần thiết để tồn tại trong niềm vui hòa bình và hạnh phúc thật sự! Kết quả của đời sống Minh Triết là đầu óc lúc nào cũng bình yên, an lạc và một tình yêu không bị bất cứ điều kiện nào của cuộc sống hình thức và ý tưởng chi phối. Tình yêu này sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt hảo của con người! Tình yêu này cũng cho con người ấy hạnh phúc vô tận bởi sự chứng ngộ tình yêu chân thật, chứ không phải tình yêu theo ý nghĩ và thoả mãn ý nghĩ của mình”.

Đây là ông Duy Tuệ “thó”ngay Tứ niệm xứ của đức Phật mà làm của mình. Tứ niệm xứ là cả một đại dương, cái đầu óc vỏ hến của ông chỉ múc được mấy giọt rồi đem ra giảng nói.

Phần một, ông nói lung tung, lẫn lộn giữa những cảm xúc, cảm giác và suy nghĩ, ý nghĩ, tưởng tượng nhưng đức Phật chỉ tóm gọn nơi minh sát “thọ” và “tâm” (thân, thọ, tâm, pháp). Thọ, cảm giác, cảm xúc là nó gồm tất thảy niềm vui, nỗi buồn, khổ và lạc, cả hoan lạc, thích thú, ưu tư, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, tuyệt vọng... Tâm là gồm suy nghĩ, ý nghĩ, tưởng tượng, vọng tưởng, gồm cả tham lam, khao khát, nóng nảy, giận dữ, sân hận, si mê và cả khi không có tham, sân, si, nhẹ nhàng, thư thái, nhu nhuyến, mềm mại, tâm dục giới, tâm sắc giới, tâm vô sắc giới...

Minh sát một cách khách quan, trung thực, như thực, không phê phán, không đồng hóa. Chúng như thế nào thì minh sát chúng như thế, đúng như thực tướng mà nó là.

Người tu tập minh sát không phải bỏ khổ tìm vui, không tránh bất an tìm an, không lìa thất vọng được hy vọng. Chúng chính là hai mặt của thực tại. Tu minh sát tuệ càng ngày càng trong sáng thì tâm như tấm kính trong suốt, không bụi bặm có thể phản ảnh trung thực những thọ, nhưng tâmđến và đi, sinh và diệt một cách rõ ràng. Những tham ưu ở đời sẽ không còn nữa, trí minh, tuệ minh được thường trực thắp sáng nên thấy rõ tam tướng. vô thường, vô ngã của tâm và pháp.

Còn ông Duy Tuệ nói sao? Ông bảo tu như thế, chỉ “quan sát thọ và tâm lẫn lộn”- mà khi đó, “một không gian tỉnh thức vô tận sẽ mở ra và cho chúng ta mọi trí tuệ cần thiết để tồn tại trong niềm vui hòa bình và hạnh phúc thật sự! Kết quả của đời sống Minh Triết là đầu óc lúc nào cũng bình yên, an lạc và một tình yêu không bị bất cứ điều kiện nào của cuộc sống hình thức và ý tưởng chi phối. Tình yêu này sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt hảo của con người! Tình yêu này cũng cho con người ấy hạnh phúc vô tận bởi sự chứng ngộ tình yêu chân thật, chứ không phải tình yêu theo ý nghĩ và thỏa mãn ý nghĩ của mình”.

Xin thưa ông “đạo sư dổm”,phát ngôn ấy của ông, mới mở tâm trí quan sát mà có được trí tuệ, có niềm vui hòa bình và hạnh phúc thật sự ư? Rồi còn tình yêu vô điều kiện xuất hiện? Rồi sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt hảo gì đó nữa.

Minh sát như thực, đối tượng của nó là thế giới như thực tánh (paramattha-dhamma); nếu tu tập khắng khít, miên mật thì chân lý sẽ hiển lộ, càng thấy rõ vô thường, vô ngã - chứ làm gì có cái gọi là hạnh phúc, là tình yêu, làm gì có cái gọi là chứng ngộ tình yêu chân thật?

Lộ tẩy bán hàng giả rồi, ông bạn! Món hàng bên ngoài láng lẩy, bao bì nhãn mác trông ngon mắt nhưng bên trong là tâm địa xấu xa: Lấy bình an, hạnh phúc, tình yêu để câu nhử những người nhẹ dạ, thiển cận, tu ít mà được nhiều, mua ít mà lời to.

Thật khiếp! Tứ niệm xứ của đạo Phật là làm lắng dịu tham ưu ở đời, mọi khổ lạc, hỷ ưu đều được nhìn ngắm như thực tánh. Còn ông ta dụ dỗ, tu “vế” khổ-bất-an-tuyệt-vọng này để được“vế” kia là lạc-thanh-bình-và-hy vọng!Thế thì tôi phải bắt chước nhà thơ Trần Tế Xuơng:

“- Phen này tôi quyết đi buôn ‘lạc’,

Quảng cáo dối gian cũng đắt hàng!”

Thêm câu nữa:

“- Đận rày, mồm mép trơn tru khiếp,

Hạnh phúc, tình yêu lắm kẻ thèm!”

Hóa ra cái gọi là Thiền Minh Triết của ông ta là vậy đó - chỉ cuỗm một tí tẹo minh sát mà đã chứng đắc hạnh phúc vô biên! Rồi phương pháp tu tập tiếp theo cũng có hai trình độ, căn bản và chuyên sâu. Cái căn bản cũng được lặp lại - là để đầu óc bình yên; và chuyên sâu là nhận rõ bản chất của suy nghĩ, tư tưởng, ý tưởng, Cái này cũng lặp lại. Và ông ta không cho biết “bản chất của chúng là cái gì”- rồi lại được thưởng thức sự nhiệm mầu của tỉnh thức? Rồi lại còn tách ý nghĩ ra khỏi sự tỉnh thức đến 99% - để thăng hoa, để sáng tạo... gì gì đó nữa. Hay ông mù tịt bản chất của suy nghĩ, ý tưởng chúng cũng như dòng sông sát-na tư tưởng trôi chảy, cũng vô thực tính, vô ngã tính?

Điều tôi vừa nói chính là ở đoạn văn rườm rà, cũ mèm của ông nói và viết sau đây:

“- Thiền ở trình độ căn bản là để giảm stress, để đầu óc bình yên vì thiếu vắng hoạt động của suy nghĩ”.

Giảm stress thì chẳng cần theo Thiền Minh Triết của ông. Bất cứ Thiền nào cũng đạt hiệu quả này khi thư giãn, buông xả. Cả những khoa tâm bịnh học, thần kinh học - chẳng cần tu Thiền mà họ cũng làm được điều đó. Món hàng này người ta bán đầy ở chợ.

“Ở trình độ này là giai đoạn ranh giới của giai đoạn hai và giai đoạn ba của cuộc đời mà tôi đã nêu trên. Nó đang chuyển hóa từ khổ đau sang chấm dứt khổ đau và trở thành người sáng tạo, hạnh phúc và yêu thương”.

Nó mới chỉ giảm sự căng thẳng của cơ bắp, nó giãn ra, nó trả lại sự vận hành nhẹ nhàng tự nhiên cho khí huyết, nhịp tim, hơi thở (thân);và khi ấy, mọi áp lực tinh thần được lắng dịu xuống (tâm).Còn cái mà ông bảo “chấm dứt đau khổ, sáng tạo, hạnh phúc và yêu thương”là ông tưởng tượng đấy, ông bán hàng dổm đấy! Vì sao? Chưa thấy thực tướng, bản chất như thực của pháp thì làm sao chấm dứt đau khổ? Chưa chấm dứt đau khổ mà ông lại khêu gợi lòng tham, khát vọng hạnh phúc và yêu thương - có nghĩa là ông lấy lòng dục mà tu tập nên sẽ đạt “bản ngã dục”to lớn hơn mà thôi!

Tôi đã tận tình lấy chánh pháp của Phật nói cho ông nghe đó. Tu như vậy thì ông sẽ đi địa ngục rồi dẫn mọi người cùng đi xuống địa ngục với ông. Chìa khóa địa ngục thầy trò ông đang nắm trong tay đó, bằng vàng ròng nguyên chất đó!

“Còn ở trình độ sâu thẳm là đi vào nhận rõ bản chất của suy nghĩ, các ý tưởng, tư tưởng để có thể làm giảm sự tàn phá của nó đối với đời sống tinh thần cũng như thể chất của mình. Ở trình độ này, Thiền sinh sẽ thưởng thức những sự nhiệm mầu của tỉnh thức và gần như chủ động đến 99% tách ý nghĩ ra khỏi tỉnh thức. Ở giai đoạn 2, Thiền sinh sẽ tập sống đi vào giai đoạn ba của cuộc đời, giai đoạn thăng hoa tinh thần”.

“Nhận rõ bản chất của suy nghĩ, các ý tưởng, tư tưởng”. Đồng ý! Nhưng ông không nói cho người ta biết, lấy cái gì mà nhìn ngắm nó? Đầu óc, suy nghĩ ông đã chích thuốc tâm thần cho nó tê liệt rồi, ông đã vô hiệu hóa nó rồi; ông đã không cho nó thức ăn, nguyên liêu, đối tượng thì nó suy nghĩ về “cái gì”? “Cái gì”, đối tượng không có thì làm sao có ý tưởng, có tư tưởng? Đã thế, cái quả của việc nhìn ngắm ấy (không biết cái gì nhìn ngắm), ông lại nói:

“Ở trình độ này, Thiền sinh sẽ thưởng thức những sự nhiệm mầu của tỉnh thức và gần như chủ động đến 99% tách ý nghĩ ra khỏi tỉnh thức”.

Đạo Phật dùng tuệ tâm sở, tuệ không, tuệ như thực tánh, chánh kiến, tỉnh thức, minh sát để nhìn ngắm - còn ông ta lại từ cái “vô tri” mà nhìn ngắm lại phát sanh “tỉnh thức”, sự nhiệm mầu của tỉnh thức! Hơn thế nữa, lại còn tách ý nghĩ ra khỏi tỉnh thức 99%! Lập ngôn này là điên đảo! Hay ông muốn bắt chước Lão Tử để tuyên bố: “Tri bất tri, thượng!”Câu này tôi không giải, cứ để cho ông suy nghĩ đến lỏng óc, một ngàn năm ông cũng không hiểu Lão Tử muốn gởi thông điệp gì!

Và cũng từ chỗ đó, chính là nền tảng sai lầm của ông, chỗ “bất tri”của ông! Từ sai lầm, từ tà kiến này mà lập ngôn, lập thuyết thì ông đã tung bóng tối tà kiến ấy di hại cho biết bao nhiêu “con chiên”ngây thơ của ông?!

Tại sao ông không chịu nhìn rõ bản chất “tà mị, vô tri, dối vay, điên đảo, ma giáo”của chính ông? Đây là bản chất như thực đấy! Thấy rõ bản chất ấy thì ông cũng giác ngộ được kia mà!

Và đây là đề mục minh sát thiết thực, hiện tiền, cụ thể (saṅdiṭṭhiko)cho ông quán tâm đây: “Với tâm tà mị, vô tri, dối vạy, điên đảo, ma giáo - tuệ tritâm tà mị, vô tri, dối vạy, điên đảo, ma giáo!”Đây chính là đề mục “đang là”để ông tự cứu mình đó. Vì, khi vị ấy tuệ tri như vậy, sống quán tâm như vậy, vị ấy sẽ thấy tánh sanh khởi, tánh diệt tận, tánh sanh diệt trên tâm ấy; vị ấy phát sanh tuệ giác, tuệ minh; vị ấy sống không nương tựa (anissito),không còn chấp trước điều gì (na upādayati)ở trên đời này nữa! Chính tại chỗ này mới chuyển hóa mọi đau khổ, thưa ông!

Rồi ông còn tiếp tục dụ dỗ, muốn kéo chúng đệ tử về với mình. Đây là dã tâm thấy rõ:

“- Nhưng dù là phương pháp nào, việc gần gũi với tôi trong giai đoạn đầu là rất quan trọng, giống như quả trứng cần hơi nóng để trở thành con”.

Vậy là phải cần thầy “ấp trứng”cho đó!

Rồi những bài Thiền căn bản: Thiền ngồi, Thiền quan sát ý nghĩ, Thiền trong lúc làm việc, Thiền trong lúc đi bộ, thể thao hay khi đang dạo chơi, Thiền trong lúc đang nói chuyện công cộng.... Chuẩn bị tinh thần, quần áo, địa điểm, thời gian, thời lượng... cũng đều là lượm lặt không tới nơi tới chốn nơi này và nơi khác. Đọc thấy mệt. Xưa như quả đất. Tôi không muốn ghi ra đây, sợ làm phiền thời gian của chư vị thức giả khả kính. Vì nó chỉ chứng tỏ là học trò hạng bét của các trường Thiền chân chính.

Chán cái ông này quá! Thôi kệ! tôi sẽ “tuệ tri tâm nóng nảy, tâm bực bội”khi viết những dòng này. Và cả mấy câu thơ này nữa:

“- Con cóc đáy giếng tà sư,

Nghiến răng, vỗ bụng kinh thư bằng trời!”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/02/2011(Xem: 8027)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
23/02/2011(Xem: 3584)
Phật Giáo Hoà Hảo được khai sáng từ năm 1939 trong dòng lịch sử cận đại của dân tộc - một nền đạo quy nguyên Phật pháp, với phương thức hành đạo đơn giản, không chuộng hình tướng lễ mễ, rườm rà mà cốt yếu hướng về tâm, chủ trương nhập thế tích cực vào mọi phương diện của xã hội, đã nhanh chóng phù hợp với phong hoá nhân sinh vốn mộc mạc, thuần phác ở vùng châu thổ sông Cửu Long.
23/02/2011(Xem: 3842)
Chính thức ra đời từ tháng 11-1926 với một lễ rất long trọng (gọi là Khai minh Đại đạo) tại chùa Gò Kén, làng Long Thành,[1] đạo Cao Đài dần dần hình thành những cộng đồng Cao Đài khác nhau trong lịch sử phát triển của nền tôn giáo bản địa mới mẻ. Mỗi cộng đồng bao gồm nhiều tín đồ với những sinh hoạt tu hành lâu đời kết tập. Sự thấm nhuần giáo lý và hàm dưỡng trong việc thực hành pháp môn trải qua thời gian mấy mươi năm đã hình thành những sắc thái riêng trong nếp nghĩ, trong hành vi, trong tình cảm của các tín đồ Cao Đài. Như vậy là có tâm lý của người tín đồ Cao Đài, nếu hiểu thật đơn giản rằng: Tâm lý là những đặc điểm về tình cảm và hành vi của một cá nhân, một nhóm người, hay một hoạt động.[2]
19/02/2011(Xem: 3490)
(VOV) - Hình ảnh những tảng thịt xâu, móc trên giá, máu còn nhỏ đỏ tươi, có miếng trơ xương, có miếng còn nguyên da lủng liếng ở một góc “chợ” trên đường vào Chùa Hương thật gây phản cảm cho người hành hương. Mới đây Đài Truyền hình Trung ương đã chiếu một phóng sự ngắn, lên tiếng về việc thịt thú rừng được treo, bày bán vô tội vạ gần thắng cảnh Hương Sơn. Hãy khoan nói về việc đó có thể là thịt thú rừng thuộc danh mục cấm săn bắn, việc có thể thú nhà giả thú rừng.v.v… Ở đây tôi chỉ muốn nói đến những hình ảnh gây phản cảm đối với khách hành hương.
19/02/2011(Xem: 4536)
Tôi chỉ là một Tu Sĩ tầm thường nhất, cho nên khi đọc những bài viết mang tính công kích, bài trừ mê tín về Hoa Trời. Tôi không chắc là Hoa Mạn đà la hay Mạn thù sa, cho nên tôi tạm gọi là Hoa Trời. Khi tôi nhận được các E-mail của Quý Ngài, cũng như vào các Websites thấy hình ảnh Hoa Trời, và nhất là lúc hành lễ Phật Ngọc có vòng hào quang xuất hiện trên trời. Lúc đó tôi rất mừng và vô cùng hoan hỷ để được chút Công Đức Tùy Hỷ. Vì mình không có góp công, góp của trong việc thỉnh Phật Ngọc Hòa Bình, nhưng có tâm tuỳ hỷ cũng được Tùy Hỷ Công Đức. Do đó, tôi thấy niềm tin của tôi phát khởi mạnh thêm, làm cho tôi tinh tấn thêm. Những Phật tử cũng điện thoại và E-mail cho tôi, thấy những hiện tượng này, làm cho gia đình họ vô cùng hoan hỷ và phát lòng tin mạnh mẽ để tinh tấn hơn. Những hình ảnh đó, đã có tác dụng làm cho bao nhiêu triệu người Phật tử trên thế giới vui tươi. Giúp họ rơi rụng đi biết bao nhiêu nhiệt não, bao nhiêu đau khổ bởi cuộc đời. Những hình ảnh ấy, đã làm cho tâm hồn h
19/02/2011(Xem: 3807)
Trong Ca Khúc Đông và Tây (The Ballad of East and West), văn hào người Anh Rudyard Kipling (1865–1936) đã viết “Ôi, Đông là Đông và Tây là Tây, cả hai chẳng nên hề gặp gở” (Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet) đã trở nên câu nói thời thượng diễn tã sự dị biệt khó hòa giải giữa hai nền văn hóa.
19/02/2011(Xem: 4340)
Ai đó dựng ra câu chuyện “sư cô trụ trì” cải đạo theo Chúa là người có tâm lý cạnh tranh tôn giáo kém lành mạnh, nếu không muốn nói là hành vi thiếu lương thiện, và những người lợi dụng tình cảnh đau đớn, lúc mê lúc tỉnh của bệnh nhân để đạt mục đích cưỡng đoạt niềm tin tôn giáo là phi đạo đức.
12/02/2011(Xem: 7273)
Có rất nhiều hình tượng để chúng ta hư cấu, mà thông qua đó gởi gấm tâm sự của mình, hay phê phán hoặc giáo dục thói hư tật xấu của xã hội. Phật, Bồ-tát và thánh tăng là những mẫu người toàn thiện của xã hội, những bậc vĩ nhân của nhân loại (chứ không phải của chủ nghĩa lý tưởng hóa).
23/01/2011(Xem: 4232)
Tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác chính là tôn trọng mình. Ai đem sự tôn trọng đi thì nhận lại sự tôn trọng. Đó là định luật nhân quả. Người viết xin được mở đầu câu chuyện trong tuần kỳ này bằng câu thành ngữ “Cáo mượn oai hùm” thường ngụ ý để chỉ cho những người ưa lòe bịp, hù dọa mọi người bằng quyền uy của người khác để tự tung tự tác. Chuyện kể, có một con hùm đói bụng đang tìm cách săn mồi thì gặp ngay một con cáo. Cáo thấy nguy bèn nói: “Này anh hùm, anh đừng có ý định ăn thịt tôi. Trời đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Anh mà ăn tôi là làm trái ý của trời! Không tin, tôi đi đằng trước, anh đi đằng sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ?”. Quả nhiên, khi cả hai cùng bước đi, mọi vật nhìn thấy đều chạy tán loạn. Con cáo lấy uy của trời để lừa hùm, rồi lại mượn hình ảnh của hùm để dương dương tự đắc với những loài vật khác.
08/01/2011(Xem: 4601)
Chẳng bao lâu nữa, đám lửa bùng lên từ Mỹ Đình kia, hay từ bất cứ tư gia nào, sẽ lan hết khắp mọi miền đất nước, và lan cả đến xung quanh chùa Quán Sứ, hay mỗi ngôi chùa khác. Mùa Noel năm nay, bên cạnh các hoạt động tưng bừng không khí ăn chơi, hội hè, mua bán thường thấy ngoài xã hội, chúng ta còn chứng kiến sự trỗi dậy của Tin lành, qua một loạt các sự kiện lễ hội mừng giáng sinh được tổ chức vào giờ chót khắp nơi trên đất nước, đặc biệt tại TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]