Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Từ vụ "đạo sư" Duy Tuệ: Phân biệt Phật đạo và ma đạo

08/11/201212:16(Xem: 10704)
10. Từ vụ "đạo sư" Duy Tuệ: Phân biệt Phật đạo và ma đạo

Từ vụ "đạo sư" Duy Tuệ: Phân biệt Phật đạo và ma đạo
Hồng Vân

Cách đây 2555 năm Đức Phật đã từng biết trước, trong thời mạt pháp sẽ xuất hiện rất nhiều đạo sư, giả làm thiện tri thức đưa chúng sinh lầm đường lạc lối không biết đâu là chánh pháp. “Sau khi tôi diệt độ rồi, trong đời mạt pháp có nhiều bọn ma này sôi nổi trong thế gian, gây nhiều việc tham dâm, lại gỉa làm người thiện tri thức. Khiến cho các chúng sinh sa vào hầm ái kiến, bỏ mất con đường bồ đề….” (Kinh Thủ Lăng Nghiêm.)
Trong Kinh Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận đức Phật đã nói về sáu hạng người sẽ chui vào Phật đạo, mượn danh Phật đạo để phá hoại chánh pháp. Khi Bồ tát Văn Thù hỏi đức Phật: Sao gọi là Lục sư ngoại đạo? Đức Phật trả lời: “Khi ta nhập diệt rồi, có nhiều thứ Ma ba tuần xen vào trong Pháp ta.
1. Ở chùa, cạo đầu, mặc áo Phật, chung lộn với người đời, ăn thịt uống rượu, nhơ bẩn đất Phật. Đấy là ngoại đạo thứ nhất.
2. Còn có người dắt vợ, đem con vào chùa. Học theo tà thuật, cho là để truyền lại cho đệ tử. Ăn thịt uống rượu. Cũng đi làm chay, tụng kinh cho người. Không phải ông thầy, không phải người tục. Đó là ngoại đạo thứ hai.
3. Còn có những người tà, trên thì không có thầy truyền, dưới thì không có thầy chứng, bị ma quỷ ám ảnh, mê muội. Trí biết bậy bạ, cho là thông minh. Chẳng có công tu, tự xưng thành đạo. Bên ngoài làm giống theo Phật, trong tâm làm việc tà mị, phỉnh gạt người đời, theo vào đường tà, diệt hạt giống Trí của Phật. Đấy là ngoại đạo thứ ba.
4. Lại có người làm theo việc hữu hình, học phép hữu vi, vẽ bùa, thỉnh chú, đuổi Quỷ, sai Thần, phỉnh gạt người đời , ác kiến càng nhiều thì chính kiến của Phật càng bị tiêu diệt. Đây là ngoại đạo thứ tư.
5. Còn có người y theo việc tốt xấu, học theo chiêm quẻ, bàn luận cát hung, xem bói xem tướng, nói trước những điều họa phúc, dối chúng gạt người, tiêu diệt con mắt chính Pháp của Phật. Đây là ngoại đạo thứ năm.
6. Lại có người sửa soạn hình tướng, bụng trống lòng cao. Mình không có tài năng mà lòng tự cao, cho mình là giỏi; chưa có chứng ngộ, nói là đã chứng, đã ngộ. Học được một hai câu nói của Phật, cho mình đã thấu lý. Chẳng ăn dầu, muối, trà, quả, tương, dấm. Chấp theo tà tướng, dối gạt người không Trí. Chẳng cần xem Kinh, niệm Phật. Chẳng cần làm Phúc tham Thiền. Chẳng cần xuất gia thụ giới. Chẳng cần tìm Thầy học Đạo. Dám đem sắc thân uyển giả này mà ví cùng Phật không khác. Lừa gạt người không biết vào nơi hắc ám. Dứt đoạn căn lành, tiêu diệt hạt giống Trí Tuệ. Hay chấp trược những sự khờ khạo, ngu si. Đây là ngoại đạo thứ sáu.
Sáu hạng ngoại đạo này là Ma ba tuần, đến thời mạt Pháp, xen vào giáo Pháp của ta, phá hoại Già Lam, huỷ báng chính Pháp của Phật, chê bai những giáo tướng, nghi thức tụng niệm”.
Qua những điều đức Phật trả lời Văn Thù sư Bồ tát ta thấy đạo sư Duy Tuệ là hạng người ngoại đạo thứ sáu mà đức Phật đã tiên đoán trước. Những kẻ ngoại đạo này sẽ chui vào Phật đạo, khoác áo cà sa, mượn danh Phật để phá hoại Tam bảo. Chánh pháp sẽ bị diệt vong do chính những hạng người này gây ra.
Với những đạo sư có một chút dụng công tu hành thiền định như : Thanh Hải vô thượng sư, Osho, Duy Tuệ… họ có trí biện thông rất phát triển. Sau một thời gian tu tập thiền định, vọng niệm sẽ lắng xuống, hành thức (một trong ngũ ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức) bắt đầu hoạt động mạnh lên. Các thiền gia có khả năng biện luận rất giỏi. Họ nói năng khéo léo hợp lý và logic rất thuyết phục người nghe. Nhưng trí biện thông đó mới chỉ là trí tuệ thế gian.
Theo HT. Tuyên Hóa thì “Khi trí biện thông phát triển, ông nên phân minh cái trí huệ thế gian và trí huệ xuất thế gian. Trí huệ thế gian nghĩa là Thế Trí Biện Thông (một trong tám nạn). Họ khéo léo nói năng, xảo ngôn, biện luận. Điều không có lẽ phải, nhưng họ nói nghe rất là có lẽ phải. Người mê ám nghe họ nói liền cho rằng: “Ồ! Họ nói rất có lý, điều họ nói rất đúng”. Kỳ thật, nếu ông có trí huệ chânchính thì không thể chấp nhận sự ngu lộng, ngụy càn, xảo ngôn của họ, không bị đạo lý ngu mê của họ khiến ông trở nên ngu mê”.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật đã nêu ra bốn chủng tử thanh tịnh để phân biệt chánh đạo và tà đạo đó là : Sát, đạo, dâm, vọng. Bất kỳ một vị tăng sĩ, đạo sư nào dù khoác áo cà sa hay không khoác áo cà sa đi thuyết pháp giảng đạo Phật mà phạm phải bốn giới thanh tịnh trên đều không phải là chánh đạo. Đây chính là kính chiếu yêu phân biệt Phật và ma là cơ sơ mà những đệ tử Phật cần phải thông rõ để tránh lạc lối.
Để bạn đọc hiểu sâu thêm vì sao những tăng sĩ, đạo sư khi phạm vào bốn giới này đều không thể vượt khỏi tam giới, giải thoát. Tôi xin được trích trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật đã chỉ rõ bốn thứ thanh tịnh như sau :
“- Lòng dâm : A Nan thế nào thu nhiếp cái tâm thì gọi là giới? Nếu chúng sinh trong lực đạo các thế giới cái tâm không dâm thì không đi theo dòng sinh tử tiếp tục. Ông tu phép tam muội cốt để ra khỏi trần lao, nếu không trừ lòng dâm thì không thể ra khỏi trần lao được. Dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền nếu không đoạn lòng dâm cũng chắc lạc vào ma đạo. Hạng trên thành ma vương, hạng giữ thành ma dân, hạng dưới thành ma nữ. Các bọn ma kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tư xưng thành đạo vô thượng. Nếu không đoạn lòng dâm mà tu thiền định thì cũng như nấu cát nấu đá muốn cho thành cơm. Dầu trải qua trăm nghìn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng đá nóng. Vì cớ sao? Vì đó là giống cát, giống đá không phải là bản nhân của cơm.
- Lòng sát : A Nan… lục đạo trong các thế giới, nếu cái tâm không sát thì không theo dòng sinh tử tiếp tục. Ông tu phép tam muội, cốt ra khỏ trần lao nếu không trừ lòng sát thì không thể ra khỏ trần lao được. Dầu có nhiều trì thiền định hiện tiền nếu không đoạn lòng sát thì chắc phải lạc vào thần đạo. Người bậc trên thì thành đại lực quỷ, người bậc giữa thì thành phi hành dạ xoa và các loài quỷ soái, người bậc dưới thì thành địa hành la sát. Các loài quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng thành đạo vô thượng. Sau khi tôi diệt độ rồi, trong đời mạt pháp có nhiều quỷ thần này sôi nổi trong thế gian. Tự nói rằng ăn thịt được đạo bồ đề…. Các ông nên biết những người ăn thịt đó dầu cho tâm được khai ngộ giống như Tam ma đề đều là loài la sát, quả báo hết rồi phải chìm đắm trong bể khổ không phải đệ tử Phật. .. Nếu không đoạn lòng sát mà tu thiền định thì cũng ví như có người tự bịt lỗ tai, cả tiếng kêu to mà trong mong người khác không nghe… làm sao đức đại bi lại lấy các máu thịt của các chúng sinh mà làm đồ ăn.
- Lòng thâu đạo : A Nan, lại như chúng sinh lục đạo trong thế giới , tâm không thâu đạo thì không theo dòng sinh tử tiếp tục. Ông tu phép tam muội, cốt ra khỏi trần lao, nếu lòng thâu đạo không trừ thì không thể ra khỏi trần lao được. Dầu cho có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn được lòng thâu đạo thì chắc phải lạc vào tà đạo. Hạng trên thì thành tinh linh, hạng giữa thì thành yêu mị, hạng dưới thì thành người tà đạo bị các loài quỷ mị nhập vào ….mỗi người tự xưng đã được đạo pháp thượng nhân lừa gạt kẻ không biết dọa dẫm khiến cho lòng mất chính tín. Chúng đi qua đến đâu, cửa nhà người ta đều bị hao tổn tan nát. Tôi dạy hàng Tỳ Kheo theo thứ lớp khất thực để bỏ lòng tham, thành đạo Bồ đề. …Nếu không đoạn lòng thâu đạo mà thu thiền định thì cũng như người lấy nước rót vào chén thủng mong cho đầy chén. Dầu trải qua kiếp số như vi trần rốt cuộc cũng không thể đầy được.
- Lòng vọng : An Nan ….nều mắc phải đại vọng ngữ thì Tam ma đề không được thanh tịnh thành giống ma ái kiến và mất giống Như Lai. Tức như chưa được gọi rằng được. Chưa chứng gọi rằng chứng, hoặc để cầu thế gian tôn trọng tột bậc, bảo người khác rằng : Tôi nay đã được qủa Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, đạo A La Hán, thừa Bích Chi Phật hay các quả vị Bồ Tát trong thập địa hay trước thập địa. Trông mong người kia lễ sám, tham sự cúng dường. Những tên nhất điên ca ấy tự tiêu diệt giống Phật. Như người lấy dao chặt cây đa la. Phật Ấn ký người ấy mất hẳn thiện căn không còn chính kiến, chìm đắm trong ba bể khổ, không thành tựu pháp tam muội. Tôi bảo các hàng Bồ Tát và A La Hán ….nhưng rốt ráo không tự bảo rằng tôi thật là Bồ Tát, thật là A La Hán, khinh xuất nói với những người chưa học, làm tiết lậu mật nhân của Phật. Chỉ trừ đến lúc lâm chung hoặc chăng thầm có những lời di chúc. Làm sao lại còn lừa gạt chúng sinh. Thành tội đại vọng ngữ. … Nếu không đoạn trừ lòng đại vọng ngữ thì cũng như khắc phân người làm thành hình cây chiên đàn mà muốn được hương thơm. Thật không có lẽ nào lại như vậy. Nhân đã không thật, quả ắt quanh co, như thế mà cầu đạo Bồ đề của Phật thì cũng như người muốn cắt rốn, làm sao mà thành tựu được.
Như lời tôi đây gọi là lời nói của Phật. Không như lời nói đó tức là lời nói của Ma ba tuần”. 
Để hiểu rõ hơn bốn chủng tử thanh tịnh đức Phật đã nói trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, chúng ta có thể nghe thêm những bài pháp thoại giảng kinh của các vị tăng sĩ. Trong bốn thứ: Sát, đạo, dâm, vọngcó lẽ đạo là khó hiểu nhất. Tôi xin được trình bày một cách đơn giản nhất. Đạo chính là lòng thâu đạo, mượn danh phật đạo để mang lại lợi ích cho cá nhân, cho gia đình mình. Các vị tăng sĩ, đạo sĩ nếu lấy của cùng dường, ăn của đàn na tín thí mà không tu hành lại gom góp cho bản thân mình, sau khi mất báo thân sẽ sa vào cảnh giới ngạ quỷ.
Đối chiếu với bốn thứ thanh tịnh để phân biệt chánh tà chúng ta thấy, các vị đạo sư thường mắc phải 3 giới: dâm, đạo, vọng. Các vị tăng sĩ thường hay mắc phải hai giới: đạo, vọng. Thầy Thích Thông Lạc đã phạm vào lòng vọng, nghĩa là chưa chứng mà tự cho mình là chứng. Mất giống Như Lai lạc vào tà đạo. Qua bốn chủng tử thanh tịnh mà đức Phật đã nêu ra, chúng ta không cần phải đi sâu phân tích đúng sai những thuyết lý của các vị tăng sĩ, đạo sư mà chỉ cần biết vị đó có phạm bốn giới trên hay không là có thể rời khỏi người thầy này để tránh lạc lối trên con đường hướng Phật của mình.
Vì sao bốn chủng tử thanh tịnh và Kinh thủ lăng nghiêm được cho là kính chiếu yêu hay cơ sở để phân biệt chánh đạo tà đạo, HT. Tuyên Hóa đã nói :
“Đây cũng bởi vì Kinh Lăng Nghiêm nói lên sự thật quá rõ ràng. Trong khi ma vương lại không thể giữ được Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối tức bốn lời răn dạy thanh tịnh, cũng không thể tu được Pháp Môn Viên Thông của hai mươi lăm vị Thánh, và càng không dám đọc về cảnh giới của Năm Mươi Loại Ấm Ma. Vì nó sợ bại lộ nguyên hình, khiến cho người ta biết được bộ mặt thật của nó, cho nên nó mới tìm cách hủy diệt Kinh Lăng Nghiêm. Hủy diệt đây không phải là đốt kinh điển, mà là hủy diệt kinh từ trong tâm chúng sanh, khiến cho mọi người mất lòng tin đối với Kinh Lăng Nghiêm”.
Trong Kinh Pháp Diệt Tận đức Phật đã nói rằng: “Tương lai khi đến thời kỳ Mạt Pháp,bộ kinh Lăng Nghiêm sẽ bị hủy diệt trước hết.”Bởi vì Kinh Lăng Nghiêm là đại biểu cho thời đại Chánh Pháp. Nếu không có kinh Lăng Nghiêm, tức là không có Chánh Pháp. Theo HT. Tuyên Hóa: “Hiện nay có rất nhiều sơn yêu thủy quái, chúng chủ trương là Kinh Lăng Nghiêm không phải do Phật nói, và muốn mọi người đừng tin. Nếu không tin Kinh Lăng Nghiêm, vậy bao nhiêu Kinh điển khác đều có thể lấy bút quẹt bỏ hết mà không tin luôn à! Vì sao? Bởi không có căn cứ chăng! Cho nên quý vị có thể thấy rằng tâm địa của ma vương quả thật quá cay độc!
Để đi sâu và làm rõ hơn một vị tăng sĩ hay vị đạo sư giảng đạo có phải là chánh đạo hay không HT. Tuyên Hóa có đưa ra sáu tiêu chuẩn để phân biệt hạng tà tri tà kiến:
1- Trước hết thử xem người nào đó có tâm tranh danh tranh lợi hay không. Dụng công cho danh lợi, lại tham tài tham sắc, tham lam không biết chán.
2- Ðể ý xem họ có tự "đánh bóng" cho họ không? Họ có tự mình xưng tán không? khoa trương mình không?
3- Họ có hạ giá người khác để đề cao thân phận của họ không? Ðối với những hạng này, chẳng cần hỏi cũng biết, nhất định là hạng tà tri tà kiến.
4- Lại xét xem họ có tham cầu gì không? Nói về người xuất gia thì mỗi ngày ăn một bữa, nhưng cũng có người không theo quy điều này, tự động đến tiệm để mua thức ăn. Người đó đương có dục niệm về ăn, vậy dục niệm về sắc chắc cũng không bỏ được. Cứ nghĩ cũng biết, những hành động đó đều là vị kỷ. Nói chung, phàm là vị kỷ tức đã có sự tham cầu.
5- Sau đó thử xem họ có tâm tự tư tự lợi không?
6 - Xem thử họ có thích nói dối không? Nếu có, họ thuộc về hạng tà tri tà kiến, không còn nghi ngờ gì nữa.
Lấy sáu tiêu chuẩn trên để trắc nghiệm có thể biết người nào đó có chánh tri chánh kiến, hay thuộc hạng tà tri tà kiến. Nói tóm lại, nếu hết thảy mọi thứ đều kéo về cho riêng mình, thì đó là hạng tà tri tà kiến. Nếu hết thảy đều vì hạnh phúc của đại chúng thì người đó có chánh tri và chánh kiến.
Trong quyển Thí Luậncủa ông Trần Do Bân chỉ rõ ba điều một vị thầy giảng đạo phạm phải đều là tà đạo:
- Vị Thầy dùng thần thông và các điều kỳ dị làm "công cụ" để thu hút những chúng sanh có lòng hiếu kỳ; đó là tà.
- Vị Thầy tự ý thêm bớt, sửa đổi các quả vị tu hành trong Phật Giáo và giải thích lệch lạc ý nghĩa của "tín, giải, tu, chứng," còn tự cho mình là giáo chủ; đó là tà.
- Vị Thầy tự lập ra tông phái rồi tự xưng là giáo chủ mà chính mình lại không có căn bản chân thật về đạo lý Phật Giáo; đó là tà.
Trong Kinh luật dị tướng - Dẫn Hải long vương kinh, Đức Phật nói: Có bốn cách kiếm thức ăn khiến cho chúng sanh bị đọa vào ba đường ác:
- Một là, dùng lưới vây bắt cầm thú, tàn hại muôn loài, sát sinh oan mạng… để kiếm thức ăn.
- Hai là, dùng gậy gộc, đao kiếm, thương trượng, xà mâu, cung tên… bức bách, đâm chém, cướp đoạt tài sản của người khác để kiếm thức ăn.
- Ba là, xan tham, nịnh hót, gây rối loạn, phạm cấm giới, tà kiến, lừa dối… để kiếm thức ăn.
- Bốn là, không phải thầy tự xưng làm thầy, không phải Thế Tôn tự xưng là Thế Tôn, theo tà đạo mà cho mình chính, không phải tịch chí mà tự xưng tịch chí, không thanh tịnh tự xưng thanh tịnh, không có phạm hạnh mà tự xưng phạm hạnh… tự xưng bừa như vậy để cầu mong có được thức ăn.
Bốn cách kiếm thức ăn như vậy khiến cho chúng sanh đọa lạc vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Ta thuyết pháp là để từ diệt bốn cách kiếm thức ăn này, để chúng sanh không vì nuôi dưỡng cái thân này mà tổn hại đến các loài chúng sanh khác. Muốn tự bảo hộ thân mình phải biết bảo hộ thân của người khác, phải cẩn thận giữ gìn chứ có vi phạm.
Trong thời kỳ mạt pháp, khi các vị đạo sư xuất hiện ở khắp nơi, mượn danh Phật pháp để đưa ra những thuyết lý, kiến giải của mình, những đệ tử Phật chúng ta cần có trạch pháp nhãn (con mắt biết chọn lựa Pháp) mới có thể phân biệt được phải hay trái, đúng hay sai và thiện hay ác một cách rõ ràng. Nếu không, chúng ta chẳng khác gì như người mù sờ voi, mò không ra được đạo lý chân chánh.
Vì biết trước trong thời kỳ mạt pháp, sau khi đức Phật diệt độ sẽ có rất nhiều hạng tà đạo chui vào Phật đạo để phá chánh pháp nên đức Phật đã dạy các vị Bồ tát Đại thừa phải đem nguyện lực, tùy chỗ ứng hiện.
Hoặc làm vị Đế vương, hoặc làm vị Tể quan, hoặc làm vị Trưởng giả, đều ở mỗi chỗ làm vị Đàn việt để tiêu trừ tà đạo, ủng hộ chính Pháp, không cho tà ma tự tiện quấy phá, y theo lời Phật dạy. Đây mới là Đệ tử của Phật. Còn như thuận theo tà, là đồng với Ma ba tuần ngoại đạo, huỷ báng Pháp Đại thừa, đọa vào Địa ngục như tên bắn”.
Dù ma đạo sôi nổi ở khắp nơi quẫy nhiễu đại chúng phá chánh pháp. Chúng ta tin rằng từ nay cho đến thời chánh pháp diệt tận còn rất nhiều các vị Bồ tát sẽ ứng hiện ở khắp nơi để gìn giữ chánh đạo diệt trừ ma đạo.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ! Nam Mô Thủ Lăng Nghiêm Kinh Phật !
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/02/2011(Xem: 8110)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
23/02/2011(Xem: 3609)
Phật Giáo Hoà Hảo được khai sáng từ năm 1939 trong dòng lịch sử cận đại của dân tộc - một nền đạo quy nguyên Phật pháp, với phương thức hành đạo đơn giản, không chuộng hình tướng lễ mễ, rườm rà mà cốt yếu hướng về tâm, chủ trương nhập thế tích cực vào mọi phương diện của xã hội, đã nhanh chóng phù hợp với phong hoá nhân sinh vốn mộc mạc, thuần phác ở vùng châu thổ sông Cửu Long.
23/02/2011(Xem: 3851)
Chính thức ra đời từ tháng 11-1926 với một lễ rất long trọng (gọi là Khai minh Đại đạo) tại chùa Gò Kén, làng Long Thành,[1] đạo Cao Đài dần dần hình thành những cộng đồng Cao Đài khác nhau trong lịch sử phát triển của nền tôn giáo bản địa mới mẻ. Mỗi cộng đồng bao gồm nhiều tín đồ với những sinh hoạt tu hành lâu đời kết tập. Sự thấm nhuần giáo lý và hàm dưỡng trong việc thực hành pháp môn trải qua thời gian mấy mươi năm đã hình thành những sắc thái riêng trong nếp nghĩ, trong hành vi, trong tình cảm của các tín đồ Cao Đài. Như vậy là có tâm lý của người tín đồ Cao Đài, nếu hiểu thật đơn giản rằng: Tâm lý là những đặc điểm về tình cảm và hành vi của một cá nhân, một nhóm người, hay một hoạt động.[2]
19/02/2011(Xem: 3501)
(VOV) - Hình ảnh những tảng thịt xâu, móc trên giá, máu còn nhỏ đỏ tươi, có miếng trơ xương, có miếng còn nguyên da lủng liếng ở một góc “chợ” trên đường vào Chùa Hương thật gây phản cảm cho người hành hương. Mới đây Đài Truyền hình Trung ương đã chiếu một phóng sự ngắn, lên tiếng về việc thịt thú rừng được treo, bày bán vô tội vạ gần thắng cảnh Hương Sơn. Hãy khoan nói về việc đó có thể là thịt thú rừng thuộc danh mục cấm săn bắn, việc có thể thú nhà giả thú rừng.v.v… Ở đây tôi chỉ muốn nói đến những hình ảnh gây phản cảm đối với khách hành hương.
19/02/2011(Xem: 4556)
Tôi chỉ là một Tu Sĩ tầm thường nhất, cho nên khi đọc những bài viết mang tính công kích, bài trừ mê tín về Hoa Trời. Tôi không chắc là Hoa Mạn đà la hay Mạn thù sa, cho nên tôi tạm gọi là Hoa Trời. Khi tôi nhận được các E-mail của Quý Ngài, cũng như vào các Websites thấy hình ảnh Hoa Trời, và nhất là lúc hành lễ Phật Ngọc có vòng hào quang xuất hiện trên trời. Lúc đó tôi rất mừng và vô cùng hoan hỷ để được chút Công Đức Tùy Hỷ. Vì mình không có góp công, góp của trong việc thỉnh Phật Ngọc Hòa Bình, nhưng có tâm tuỳ hỷ cũng được Tùy Hỷ Công Đức. Do đó, tôi thấy niềm tin của tôi phát khởi mạnh thêm, làm cho tôi tinh tấn thêm. Những Phật tử cũng điện thoại và E-mail cho tôi, thấy những hiện tượng này, làm cho gia đình họ vô cùng hoan hỷ và phát lòng tin mạnh mẽ để tinh tấn hơn. Những hình ảnh đó, đã có tác dụng làm cho bao nhiêu triệu người Phật tử trên thế giới vui tươi. Giúp họ rơi rụng đi biết bao nhiêu nhiệt não, bao nhiêu đau khổ bởi cuộc đời. Những hình ảnh ấy, đã làm cho tâm hồn h
19/02/2011(Xem: 3821)
Trong Ca Khúc Đông và Tây (The Ballad of East and West), văn hào người Anh Rudyard Kipling (1865–1936) đã viết “Ôi, Đông là Đông và Tây là Tây, cả hai chẳng nên hề gặp gở” (Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet) đã trở nên câu nói thời thượng diễn tã sự dị biệt khó hòa giải giữa hai nền văn hóa.
19/02/2011(Xem: 4362)
Ai đó dựng ra câu chuyện “sư cô trụ trì” cải đạo theo Chúa là người có tâm lý cạnh tranh tôn giáo kém lành mạnh, nếu không muốn nói là hành vi thiếu lương thiện, và những người lợi dụng tình cảnh đau đớn, lúc mê lúc tỉnh của bệnh nhân để đạt mục đích cưỡng đoạt niềm tin tôn giáo là phi đạo đức.
12/02/2011(Xem: 7295)
Có rất nhiều hình tượng để chúng ta hư cấu, mà thông qua đó gởi gấm tâm sự của mình, hay phê phán hoặc giáo dục thói hư tật xấu của xã hội. Phật, Bồ-tát và thánh tăng là những mẫu người toàn thiện của xã hội, những bậc vĩ nhân của nhân loại (chứ không phải của chủ nghĩa lý tưởng hóa).
23/01/2011(Xem: 4251)
Tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác chính là tôn trọng mình. Ai đem sự tôn trọng đi thì nhận lại sự tôn trọng. Đó là định luật nhân quả. Người viết xin được mở đầu câu chuyện trong tuần kỳ này bằng câu thành ngữ “Cáo mượn oai hùm” thường ngụ ý để chỉ cho những người ưa lòe bịp, hù dọa mọi người bằng quyền uy của người khác để tự tung tự tác. Chuyện kể, có một con hùm đói bụng đang tìm cách săn mồi thì gặp ngay một con cáo. Cáo thấy nguy bèn nói: “Này anh hùm, anh đừng có ý định ăn thịt tôi. Trời đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Anh mà ăn tôi là làm trái ý của trời! Không tin, tôi đi đằng trước, anh đi đằng sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ?”. Quả nhiên, khi cả hai cùng bước đi, mọi vật nhìn thấy đều chạy tán loạn. Con cáo lấy uy của trời để lừa hùm, rồi lại mượn hình ảnh của hùm để dương dương tự đắc với những loài vật khác.
08/01/2011(Xem: 4619)
Chẳng bao lâu nữa, đám lửa bùng lên từ Mỹ Đình kia, hay từ bất cứ tư gia nào, sẽ lan hết khắp mọi miền đất nước, và lan cả đến xung quanh chùa Quán Sứ, hay mỗi ngôi chùa khác. Mùa Noel năm nay, bên cạnh các hoạt động tưng bừng không khí ăn chơi, hội hè, mua bán thường thấy ngoài xã hội, chúng ta còn chứng kiến sự trỗi dậy của Tin lành, qua một loạt các sự kiện lễ hội mừng giáng sinh được tổ chức vào giờ chót khắp nơi trên đất nước, đặc biệt tại TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]