Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hồi thứ năm: Thiền Minh Triết là gì?

08/11/201212:16(Xem: 10379)
Hồi thứ năm: Thiền Minh Triết là gì?

Mổ xẻ cái gọi là Thiền Minh Triết của “đạo sư” Duy Tuệ

Minh Đức Triều Tâm Ảnh


Hồi thứ năm: Thiền Minh Triết là gì?


Đấy là tiêu đề của ông Duy Tuệ.

Rồi ông giảng:

“- Là phương pháp kích hoạt (activate) không gian tĩnh lặng vô tận của đầu óc để quan sát mọi dấu hiệu hay hiện tượng đang xảy ra và vận hành trong chính nó như các suy nghĩ, ý tưởng, đánh giá, suy luận, hơn thua, thèm thuồng, nhớ tưởng về chuyện đã qua, tưởng tượng chuyện sắp đến. Làm như vậy, sẽ lấy lại được bầu trời thanh bình dễ chịu và minh mẫn, ứng xử tự nhiên và thành công, phù hợp mọi hoàn cảnh mà đầu óc vẫn luôn gìn giữ được sự hồn nhiên.

Là thường xuyên nhận biết các cảm xúc (emotion) như lo lắng, bồn chồn, khó chịu, đau buồn, tức giận, thất vọng, tuyệt vọng… đang chạy trên cơ thể để qua đó chúng mất đi và đầu óc trở lại bình yên dễ chịu và tỉnh táo, sáng suốt trước mọi biến động của hoàn cảnh.

Là các phương pháp thực hành để dừng sự tin tưởng hay lòng chấp của mình vào ý nghĩ hay ý tưởng trong đầu óc. Khi đó, một không gian tỉnh thức vô tận sẽ mở ra và cho chúng ta mọi trí tuệ cần thiết để tồn tại trong niềm vui hòa bình và hạnh phúc thật sự! Kết quả của đời sống Minh Triết là đầu óc lúc nào cũng bình yên, an lạc và một tình yêu không bị bất cứ điều kiện nào của cuộc sống hình thức và ý tưởng chi phối. Tình yêu này sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt hảo của con người! Tình yêu này cũng cho con người ấy hạnh phúc vô tận bởi sự chứng ngộ tình yêu chân thật, chứ không phải tình yêu theo ý nghĩ và thoả mãn ý nghĩ của mình.

Là bí quyết thưởng thức niềm vui và hạnh phúc bên trong tâm hồn.Mục đích chung nhất của Thiền Minh Triết là mở ra không gian vô tận trong đầu óc của mình”.

Quý vị đọc đi đọc lại xem. Đoạn văn này gồm hai phần. Phần một, nhân tu tập:

“Là kích hoạt (activate) không gian tĩnh lặng vô tận của đầu óc để quan sát mọi dấu hiệu hay hiện tượng đang xảy ra... ví dụ như suy nghĩ, ý tưởng, đánh giá, suy luận, hơn thua, thèm thuồng, nhớ tưởng về chuyện đã qua, tưởng tượng chuyện sắp đến. Là thường xuyên nhận biết các cảm xúc (emotion) như lo lắng, bồn chồn, khó chịu, đau buồn, tức giận, thất vọng, tuyệt vọng...”

Và phần hai, quả tu tập:

“Làm như vậy, sẽ lấy lại được bầu trời thanh bình dễ chịu và minh mẫn, ứng xử tự nhiên và thành công, phù hợp mọi hoàn cảnh mà đầu óc vẫn luôn gìn giữ được sự hồn nhiên. Khi đó, một không gian tỉnh thức vô tận sẽ mở ra và cho chúng ta mọi trí tuệ cần thiết để tồn tại trong niềm vui hòa bình và hạnh phúc thật sự! Kết quả của đời sống Minh Triết là đầu óc lúc nào cũng bình yên, an lạc và một tình yêu không bị bất cứ điều kiện nào của cuộc sống hình thức và ý tưởng chi phối. Tình yêu này sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt hảo của con người! Tình yêu này cũng cho con người ấy hạnh phúc vô tận bởi sự chứng ngộ tình yêu chân thật, chứ không phải tình yêu theo ý nghĩ và thoả mãn ý nghĩ của mình”.

Đây là ông Duy Tuệ “thó”ngay Tứ niệm xứ của đức Phật mà làm của mình. Tứ niệm xứ là cả một đại dương, cái đầu óc vỏ hến của ông chỉ múc được mấy giọt rồi đem ra giảng nói.

Phần một, ông nói lung tung, lẫn lộn giữa những cảm xúc, cảm giác và suy nghĩ, ý nghĩ, tưởng tượng nhưng đức Phật chỉ tóm gọn nơi minh sát “thọ” và “tâm” (thân, thọ, tâm, pháp). Thọ, cảm giác, cảm xúc là nó gồm tất thảy niềm vui, nỗi buồn, khổ và lạc, cả hoan lạc, thích thú, ưu tư, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, tuyệt vọng... Tâm là gồm suy nghĩ, ý nghĩ, tưởng tượng, vọng tưởng, gồm cả tham lam, khao khát, nóng nảy, giận dữ, sân hận, si mê và cả khi không có tham, sân, si, nhẹ nhàng, thư thái, nhu nhuyến, mềm mại, tâm dục giới, tâm sắc giới, tâm vô sắc giới...

Minh sát một cách khách quan, trung thực, như thực, không phê phán, không đồng hóa. Chúng như thế nào thì minh sát chúng như thế, đúng như thực tướng mà nó là.

Người tu tập minh sát không phải bỏ khổ tìm vui, không tránh bất an tìm an, không lìa thất vọng được hy vọng. Chúng chính là hai mặt của thực tại. Tu minh sát tuệ càng ngày càng trong sáng thì tâm như tấm kính trong suốt, không bụi bặm có thể phản ảnh trung thực những thọ, nhưng tâmđến và đi, sinh và diệt một cách rõ ràng. Những tham ưu ở đời sẽ không còn nữa, trí minh, tuệ minh được thường trực thắp sáng nên thấy rõ tam tướng. vô thường, vô ngã của tâm và pháp.

Còn ông Duy Tuệ nói sao? Ông bảo tu như thế, chỉ “quan sát thọ và tâm lẫn lộn”- mà khi đó, “một không gian tỉnh thức vô tận sẽ mở ra và cho chúng ta mọi trí tuệ cần thiết để tồn tại trong niềm vui hòa bình và hạnh phúc thật sự! Kết quả của đời sống Minh Triết là đầu óc lúc nào cũng bình yên, an lạc và một tình yêu không bị bất cứ điều kiện nào của cuộc sống hình thức và ý tưởng chi phối. Tình yêu này sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt hảo của con người! Tình yêu này cũng cho con người ấy hạnh phúc vô tận bởi sự chứng ngộ tình yêu chân thật, chứ không phải tình yêu theo ý nghĩ và thỏa mãn ý nghĩ của mình”.

Xin thưa ông “đạo sư dổm”,phát ngôn ấy của ông, mới mở tâm trí quan sát mà có được trí tuệ, có niềm vui hòa bình và hạnh phúc thật sự ư? Rồi còn tình yêu vô điều kiện xuất hiện? Rồi sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt hảo gì đó nữa.

Minh sát như thực, đối tượng của nó là thế giới như thực tánh (paramattha-dhamma); nếu tu tập khắng khít, miên mật thì chân lý sẽ hiển lộ, càng thấy rõ vô thường, vô ngã - chứ làm gì có cái gọi là hạnh phúc, là tình yêu, làm gì có cái gọi là chứng ngộ tình yêu chân thật?

Lộ tẩy bán hàng giả rồi, ông bạn! Món hàng bên ngoài láng lẩy, bao bì nhãn mác trông ngon mắt nhưng bên trong là tâm địa xấu xa: Lấy bình an, hạnh phúc, tình yêu để câu nhử những người nhẹ dạ, thiển cận, tu ít mà được nhiều, mua ít mà lời to.

Thật khiếp! Tứ niệm xứ của đạo Phật là làm lắng dịu tham ưu ở đời, mọi khổ lạc, hỷ ưu đều được nhìn ngắm như thực tánh. Còn ông ta dụ dỗ, tu “vế” khổ-bất-an-tuyệt-vọng này để được“vế” kia là lạc-thanh-bình-và-hy vọng!Thế thì tôi phải bắt chước nhà thơ Trần Tế Xuơng:

“- Phen này tôi quyết đi buôn ‘lạc’,

Quảng cáo dối gian cũng đắt hàng!”

Thêm câu nữa:

“- Đận rày, mồm mép trơn tru khiếp,

Hạnh phúc, tình yêu lắm kẻ thèm!”

Hóa ra cái gọi là Thiền Minh Triết của ông ta là vậy đó - chỉ cuỗm một tí tẹo minh sát mà đã chứng đắc hạnh phúc vô biên! Rồi phương pháp tu tập tiếp theo cũng có hai trình độ, căn bản và chuyên sâu. Cái căn bản cũng được lặp lại - là để đầu óc bình yên; và chuyên sâu là nhận rõ bản chất của suy nghĩ, tư tưởng, ý tưởng, Cái này cũng lặp lại. Và ông ta không cho biết “bản chất của chúng là cái gì”- rồi lại được thưởng thức sự nhiệm mầu của tỉnh thức? Rồi lại còn tách ý nghĩ ra khỏi sự tỉnh thức đến 99% - để thăng hoa, để sáng tạo... gì gì đó nữa. Hay ông mù tịt bản chất của suy nghĩ, ý tưởng chúng cũng như dòng sông sát-na tư tưởng trôi chảy, cũng vô thực tính, vô ngã tính?

Điều tôi vừa nói chính là ở đoạn văn rườm rà, cũ mèm của ông nói và viết sau đây:

“- Thiền ở trình độ căn bản là để giảm stress, để đầu óc bình yên vì thiếu vắng hoạt động của suy nghĩ”.

Giảm stress thì chẳng cần theo Thiền Minh Triết của ông. Bất cứ Thiền nào cũng đạt hiệu quả này khi thư giãn, buông xả. Cả những khoa tâm bịnh học, thần kinh học - chẳng cần tu Thiền mà họ cũng làm được điều đó. Món hàng này người ta bán đầy ở chợ.

“Ở trình độ này là giai đoạn ranh giới của giai đoạn hai và giai đoạn ba của cuộc đời mà tôi đã nêu trên. Nó đang chuyển hóa từ khổ đau sang chấm dứt khổ đau và trở thành người sáng tạo, hạnh phúc và yêu thương”.

Nó mới chỉ giảm sự căng thẳng của cơ bắp, nó giãn ra, nó trả lại sự vận hành nhẹ nhàng tự nhiên cho khí huyết, nhịp tim, hơi thở (thân);và khi ấy, mọi áp lực tinh thần được lắng dịu xuống (tâm).Còn cái mà ông bảo “chấm dứt đau khổ, sáng tạo, hạnh phúc và yêu thương”là ông tưởng tượng đấy, ông bán hàng dổm đấy! Vì sao? Chưa thấy thực tướng, bản chất như thực của pháp thì làm sao chấm dứt đau khổ? Chưa chấm dứt đau khổ mà ông lại khêu gợi lòng tham, khát vọng hạnh phúc và yêu thương - có nghĩa là ông lấy lòng dục mà tu tập nên sẽ đạt “bản ngã dục”to lớn hơn mà thôi!

Tôi đã tận tình lấy chánh pháp của Phật nói cho ông nghe đó. Tu như vậy thì ông sẽ đi địa ngục rồi dẫn mọi người cùng đi xuống địa ngục với ông. Chìa khóa địa ngục thầy trò ông đang nắm trong tay đó, bằng vàng ròng nguyên chất đó!

“Còn ở trình độ sâu thẳm là đi vào nhận rõ bản chất của suy nghĩ, các ý tưởng, tư tưởng để có thể làm giảm sự tàn phá của nó đối với đời sống tinh thần cũng như thể chất của mình. Ở trình độ này, Thiền sinh sẽ thưởng thức những sự nhiệm mầu của tỉnh thức và gần như chủ động đến 99% tách ý nghĩ ra khỏi tỉnh thức. Ở giai đoạn 2, Thiền sinh sẽ tập sống đi vào giai đoạn ba của cuộc đời, giai đoạn thăng hoa tinh thần”.

“Nhận rõ bản chất của suy nghĩ, các ý tưởng, tư tưởng”. Đồng ý! Nhưng ông không nói cho người ta biết, lấy cái gì mà nhìn ngắm nó? Đầu óc, suy nghĩ ông đã chích thuốc tâm thần cho nó tê liệt rồi, ông đã vô hiệu hóa nó rồi; ông đã không cho nó thức ăn, nguyên liêu, đối tượng thì nó suy nghĩ về “cái gì”? “Cái gì”, đối tượng không có thì làm sao có ý tưởng, có tư tưởng? Đã thế, cái quả của việc nhìn ngắm ấy (không biết cái gì nhìn ngắm), ông lại nói:

“Ở trình độ này, Thiền sinh sẽ thưởng thức những sự nhiệm mầu của tỉnh thức và gần như chủ động đến 99% tách ý nghĩ ra khỏi tỉnh thức”.

Đạo Phật dùng tuệ tâm sở, tuệ không, tuệ như thực tánh, chánh kiến, tỉnh thức, minh sát để nhìn ngắm - còn ông ta lại từ cái “vô tri” mà nhìn ngắm lại phát sanh “tỉnh thức”, sự nhiệm mầu của tỉnh thức! Hơn thế nữa, lại còn tách ý nghĩ ra khỏi tỉnh thức 99%! Lập ngôn này là điên đảo! Hay ông muốn bắt chước Lão Tử để tuyên bố: “Tri bất tri, thượng!”Câu này tôi không giải, cứ để cho ông suy nghĩ đến lỏng óc, một ngàn năm ông cũng không hiểu Lão Tử muốn gởi thông điệp gì!

Và cũng từ chỗ đó, chính là nền tảng sai lầm của ông, chỗ “bất tri”của ông! Từ sai lầm, từ tà kiến này mà lập ngôn, lập thuyết thì ông đã tung bóng tối tà kiến ấy di hại cho biết bao nhiêu “con chiên”ngây thơ của ông?!

Tại sao ông không chịu nhìn rõ bản chất “tà mị, vô tri, dối vay, điên đảo, ma giáo”của chính ông? Đây là bản chất như thực đấy! Thấy rõ bản chất ấy thì ông cũng giác ngộ được kia mà!

Và đây là đề mục minh sát thiết thực, hiện tiền, cụ thể (saṅdiṭṭhiko)cho ông quán tâm đây: “Với tâm tà mị, vô tri, dối vạy, điên đảo, ma giáo - tuệ tritâm tà mị, vô tri, dối vạy, điên đảo, ma giáo!”Đây chính là đề mục “đang là”để ông tự cứu mình đó. Vì, khi vị ấy tuệ tri như vậy, sống quán tâm như vậy, vị ấy sẽ thấy tánh sanh khởi, tánh diệt tận, tánh sanh diệt trên tâm ấy; vị ấy phát sanh tuệ giác, tuệ minh; vị ấy sống không nương tựa (anissito),không còn chấp trước điều gì (na upādayati)ở trên đời này nữa! Chính tại chỗ này mới chuyển hóa mọi đau khổ, thưa ông!

Rồi ông còn tiếp tục dụ dỗ, muốn kéo chúng đệ tử về với mình. Đây là dã tâm thấy rõ:

“- Nhưng dù là phương pháp nào, việc gần gũi với tôi trong giai đoạn đầu là rất quan trọng, giống như quả trứng cần hơi nóng để trở thành con”.

Vậy là phải cần thầy “ấp trứng”cho đó!

Rồi những bài Thiền căn bản: Thiền ngồi, Thiền quan sát ý nghĩ, Thiền trong lúc làm việc, Thiền trong lúc đi bộ, thể thao hay khi đang dạo chơi, Thiền trong lúc đang nói chuyện công cộng.... Chuẩn bị tinh thần, quần áo, địa điểm, thời gian, thời lượng... cũng đều là lượm lặt không tới nơi tới chốn nơi này và nơi khác. Đọc thấy mệt. Xưa như quả đất. Tôi không muốn ghi ra đây, sợ làm phiền thời gian của chư vị thức giả khả kính. Vì nó chỉ chứng tỏ là học trò hạng bét của các trường Thiền chân chính.

Chán cái ông này quá! Thôi kệ! tôi sẽ “tuệ tri tâm nóng nảy, tâm bực bội”khi viết những dòng này. Và cả mấy câu thơ này nữa:

“- Con cóc đáy giếng tà sư,

Nghiến răng, vỗ bụng kinh thư bằng trời!”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/01/2011(Xem: 4891)
Những người mưu toan cải đạo tín đồ Phật giáo sang các tôn giáo phương Tây luôn săn tìm những không gian thuận lợi để tổ chức thực hiện việc cải đạo. Tất cả mọi địa điểm đều được chú ý đến, đặc biệt là những địa điểm công cộng như trường học, bệnh viện, kể cả những không gian di động, nhưng có nhiều thời gian để hành sự, như xe đò đường dài, xe lửa…
31/12/2010(Xem: 4034)
Khi thấy những không gian ngập tràn sách trong ngày hội sách đang diễn ra ở nhiều thành phố lớn, lòng tôi rộn lên một niềm vui khó tả. Tôi bỗng nhớ về những ngày chật vật gom từng cuốn sách từ nước ngoài về Việt Nam, thời chúng ta còn hiếm sách.
27/12/2010(Xem: 4213)
Người dịch: Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đống góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó. Nội dung cuốn sách tập trung thảo luận về đạo đức học Phật giáo và liên hệ nó với những vấn đề đạo đức hiện đại như phá thai, hạn chế sinh sản, nghiên cứu phôi thai, trợ tử, việc kéo dài trạng thái sống thực vật.v.v… Cuốn sách cũng bàn đến vấn đề khi nào thì đời sống một con người được xem chính thức bắt đầu, và khi nào cái chết được coi chính thức xảy ra.
24/12/2010(Xem: 5434)
Phật giáo Việt-Nam trải qua nhiều bước thăng trầm. Đời Lý, Trần Phật giáo cực thịnh, là quốc đạo. Triều Lê Phật giáo bắt đầu suy vi. Đến triều Nguyễn Phật giáo sa sút, mất hẳn vị trí trong chính trị văn hóa và xã hội ở Việt-Nam.
19/12/2010(Xem: 5035)
Gần đây có người nói rằng Phật Giáo Đại Thừa là Bà La Môn Giáo, là tà ma ngoại đạo. Thật ra lời nói này không có gì mới lạ, nó đã có từ thời xưa, khi Phật Giáo đang ở trong thời kỳ phát triển. Tuy nhiên, nhằm tránh sự hoang mang cho những người mới bước chân vào đạo Phật và cho những Phật tử không có nhiều thì giờ nghiên cứu về sự khác biệt giữa hai tôn giáo nên chúng tôi viết bài dưới đây. Chúng tôi không có ý so sánh hai tôn giáo lớn của nhân loại, vì việc làm này là của các nhà học gỉa, mà chúng tôi chỉ đưa ra vài điểm khác biệt quan yếu có tính cách nền tảng giữa đạo Phật nói chung, Phật Giáo Đại Thừa nói riêng so với Bà La Môn Giáo.
18/12/2010(Xem: 16128)
Nhận Xét Của Thượng Tọa Thích Đức Thắng Về Quyển Sách: Đường Về Xứ Phật Thích Thông Lạc
08/12/2010(Xem: 5395)
“Tăng ly chúng tăng tàn”, còn chúng tại gia ly chúng xuất gia thì ra sao? Thế nào là “cư sĩ ly tăng”? Đâu là nguyên nhân và đâu là cách giải quyết vấn đề? “Tăng ly chúng” là một vấn đề đã được bàn luận nhiều.
24/11/2010(Xem: 10718)
Mấy ngày qua, cả nước oằn mình trước sự tàn phá đầy tang thương của cơn bão Ketsana. Cũng thời điểm đó “cơn bão” bất khoan dung của chính quyền tỉnh Lâm Đồng kéo đến tu viện Bát Nhã, gây nên tình cảnh bất an cho khoảng 400 Tăng Ni tu theo pháp môn Làng Mai. Hai cơn bão đến cùng một lúc khiến cho lòng người Phật tử Việt Nam thêm quặn thắt.
23/10/2010(Xem: 4056)
"Chẳng có gì hổ thẹn cho một người có ông nội là khỉ. Nếu có gì đáng hổ thẹn về tổ tiên của tôi, thì đó là vì tổ tiên của tôi là người: một người có trí thức nông cạn và bất nhất, một người không biết tự bằng lòng với thành công trong lĩnh vực riêng của mình, lại hăm hở can thiệp vào những vấn đề khoa học hoàn toàn xa lạ, làm tối tăm vấn đề bằng thứ từ chương rỗng tuếch, đánh lạc hướng chú ý của cử tọa để khỏi đi vào những vấn đề thực sự đặt ra bằng lối nói lạc đề đầy hùng biện và những hô hào đầy thành kiến tôn giáo".
16/10/2010(Xem: 4547)
Tuần vừa qua, một cuốn phim Đại Hàn ra mắt khán giả Paris, được khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là : Xuân Hạ Thu Đông ... rồi Xuân (1). Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên thơ quá. Xuân hạ thu đông thì chẳng có gì lạ, nhưng xuân hạ thu đông ... rồi xuân thì cái duyên đã phát tiết ra ngoài. Huống hồ, ở trong phim, xuân rồi lại xuân trên một ngôi chùa nhỏ ... trên một ngôi chùa nhỏ chênh vênh giữa núi non.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]