Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo sư Việt Kiều Úc nói hệ thống giáo dục VN

26/03/201720:43(Xem: 4038)
Giáo sư Việt Kiều Úc nói hệ thống giáo dục VN

giao su nguyen xuan thu

Ý kiến của
Giáo sư Nguyễn Xuân Thu
về khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân




Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân (Khung cơ cấu) được ban hành bằng Quyết định số 1981/QĐ-TTg, ngày 18/10/2016 [1].
Đây là một cái khung hy vọng sẽ là nền tảng cho nỗ lực cải tổ giáo dục Việt Nam nhằm đưa đất nước đến một trình độ phát triển ngang bằng với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Thực tế, các Khung cơ cấu của các nước tổng thể thường giống nhau. Khác biệt nếu có thì chỉ ở phạm vi ưu tiên chú trọng vào các cấp học và trình độ đào tạo do những hoàn cảnh kinh tế, chính trị khác nhau của mỗi nước.
Khung cơ cấu của Việt Nam được ra đời cùng ngày với Quyết định Khung trình độ quốc gia Việt Nam (Khung trình độ) [2], nghĩa là rất đúng lúc, đúng quy trình vì không thể có Khung trình độ nếu chưa có Khung cơ cấu.
Nói khác đi phải có thân cây giáo dục trước rồi sau mới có các nhánh, cành, hoa, lá.
Khung cơ cấu hệ thống giáo dục Việt Nam có 4 cấp học:

(1) Giáo dục mầm non gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo;
(2) Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung học phổ thông;
(3) Giáo dục nghề nghiệp đào tạo các trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng;
Và (4) Giáo dục đại học đào tạo các trình độ đại học, thạc sĩ và tiến sĩ, trong đó tại trình độ đại học và trình độ thạc sĩ mỗi loại được chia ra định hướng nghiên cứu và định hướng ứng dụng.
Với khung cơ cấu hệ thống trên, chúng tôi xin có đề xuất như sau:
1. Giữ nguyên cấp giáo dục mầm non gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo.
2. Tách cấp giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung học phổ thông ra làm hai: cấp phổ cập giáo dục phổ thông 9 năm gồm giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở, gọi là phổ cập giáo dục, đúng như quy định trong Luật Giáo dục 2005 và Luật bổ sung 2009 [3].
Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân (Khung cơ cấu) được ban hành bằng Quyết định số 1981/QĐ-TTg. (Ảnh: Nhandan.com.vn)
Lý do cấp giáo dục này là một cột mốc rất quan trọng trong việc, một mặt là giúp định hình nhân cách và các giá trị phổ quát ở mỗi học sinh, và mặt khác mở ra cho học sinh những cuộc hành trình đi tìm các loại màu sắc lung linh của trí tuệ và kỹ năng.
Sau giai đoạn phổ cập giáo dục, học sinh có thể vào học trong các trường sơ cấp và trung cấp thuộc bậc giáo dục nghề nghiệp.
3. Cấp giáo dục trung học phổ thông gồm 3 năm, từ lớp 10 đến hết lớp 12, là giai đoạn khởi đầu cho hành trình giáo dục và đào tạo. Tốt nghiệp bậc Trung học Phổ thông, học sinh có thể đăng ký vào học bậc cao đẳng hoặc bậc đại học.
4. Giữ nguyên cấp giáo dục nghề nghiệp đào tạo các trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng.
Học hết lớp 12 và tùy theo năng lực học tập, nếu không vào được đại học, học sinh có thể vào học trong các trường cao đẳng thuộc cấp giáo dục nghề nghiệp.

Những vấn đề cần điều chỉnh về quản trị giáo dục đại học trong khung cơ cấu mới

5. Giữ nguyên cấp giáo dục đại học đào tạo các trình độ đại học, thạc sĩ và tiến sĩ như trong Quyết định của chính phủ.

Như vậy Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân theo chúng tôi đề xuất có 5 bậc chứ không phải 4 bậc như trong khung cơ cấu được chính phủ ban hành trong tháng 10 năm 2016.
Chúng tôi nghĩ rằng Khung cơ cấu 4 bậc hiện nay không phân biệt rõ giữa mục tiêu của giáo dục trong giai đoạn “phổ cập giáo dục” (mang tính cưỡng bách và phổ quát) và mục tiêu của giáo dục trung học phổ thông (nhằm chuẩn bị cho học sinh những kiến thức nền tảng cho cuộc hành trình nghề nghiệp của chúng trong tương lai) [4].
Xin có thêm ý kiến về việc Chính phủ phân giáo dục đại học thuộc bậc đại học (cử nhân) ra làm định hướng (focus) nghiên cứu và định hướng ứng dụng.
Theo chúng tôi, cách phân chia này là chưa thích hợp vì phần lớn các trường đại học của Việt Nam hiện nay chưa có đủ cơ sở vất chất và trang thiết bị phục vụ các hoạt động nghiên cứu khoa học.
Cũng cần biết thêm, không mấy trường đại học trong các nước phát triển như Mỹ, Canada, Úc, Anh chia trình độ giáo dục bậc đại học (Bachelor degree) ra hai nhánh nghiên cứu và ứng dụng một cách chính thức như ở Việt Nam.
Đối với các môn học trong chương trình bậc đại học, sinh viên có quyền chọn hoàn toàn dự lớp (by coursework) hoặc một số phần trăm trong mỗi môn học dự lớp (ví dụ 75%) và một số phần trăm nghiên cứu (ví dụ 25%) để làm một đề tài nghiên cứu nhỏ (minor thesis) mà các em muốn trải nghiệm.



hoc sinh viet nam
Sinh viên là người lựa chọn mô hình học tập dựa trên các chương trình đào tạo do mỗi trường đại học thiết kế và được Tổ chức Chất lượng Giáo dục Đại học kiểm định (accreditation).

Thiết kế các chương trình học theo một định hướng nào đó là thuộc về thẩm quyền của từng trường đại học.
Ngoài ra, trình độ giáo dục đại học bậc thạc sĩ mới có hai loại định hướng nghiên cứu và định hướng ứng dụng. Tại trình độ tiến sĩ chỉ có định hướng nghiên cứu.

Nhưng trên tất cả, mục tiêu cốt lõi của giáo dục đào tạo là (1) giúp con người trở thành những công dân tốt cho xã hội, (2) trang bị những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp lợi ích cho cộng đồng và (3) phát triển năng lực cá nhân để mỗi con người có cuộc sống cá nhân thỏa mãn về tinh thần và đầy đủ về vật chất và có trách nhiệm đối với một xã hội được vận hành hài hòa giữa chính trị và kinh tế [5].

Tài liệu tham khảo:
[1] Xem Quyết định về Khung Cơ cấu Hệ thống Giáo dục Quốc dân của Thủ tướng Chính phủ, số 1981/QĐ-TTg ban hành ngày 18/10/2016.
[2] Xem Quyết định Phê duyệt Khung Trình độ Giáo dục Quốc gia Việt Nam số 1982/QĐ-TTg ngày 18/11/2016.
[3] Tại tiểu bang Victoria của Úc, giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học và giáo dục phổ thông cơ sở do sự quản lý và tài trợ của Bộ trưởng Bộ Gia đình và Trẻ em (Minister for Families and Children).
[4] Bốn cột trụ học tập của giáo dục phổ thông: một là học để biết kể cả học suốt đời; hai là học để làm; ba là học để sống với người khác, hiểu người khác và chấp nhận sự khác biệt, và quản lý những xung đột trong tinh thần hòa hoãn và tôn trọng sự đa dạng của nhau; và bốn là học để tồn tại, để phát triển nhân cách, và để hành động một cách độc lập, có phán đoán chính xác và với trách nhiệm cá nhân. Xem Learning: The Treasure Within by Delors et al., 1996.

[5] Xem Laura Salganik và Steven Provasnik trong Goals of Universal Basic and Secondary Education của Joe E. Cohen, 9/2006.
Nguyễn Xuân Thu

***
Ý kiến bạn đọc:
hantu
  2  

Tôi rất tâm đắc với suy nghĩ của giáo sư. Nhưng không có ngoại ngữ thì trình độ nguồn lực nước ta luôn bị hạ thấp. Bậc PTTH tôi cũng thấy không cần thiết như hiện nay, vừa lãng phí tuổi thơ vừa tốn tiền ngân sách và gia đình. Với những em không định hình được nghề của mình thì do Nhà nước phân theo sức học, có em học yếu nhưng quyết tâm vào Đh thì em phải học bán trú đóng phí. Em định hình nghề xét nghề đó là cần ngoại ngữ buộc phải học trải nghiệm ở nước nói tiếng đó. Nhà nước cho vay, nếu công nhân cho xuất khẩu trả nợ dần, nếu học ĐH thì khi ra trường đi làm sẽ theo sổ BHXH thu lại, nếu bỏ giữa chừng thì không cấp bằng... Mất 10 năm VN không kém Sin bây giờ.  

Kim Tú
  2  

Trước nay hầu như chưa từng có thảo luận chính thức nào về vấn đề này, mặc dù khung cơ cấu chương trình học là khái niệm cực kì quan trọng cần được tập trung nhiều ý kiến và kinh nghiệm các chuyên gia. Bài viết súc tích của GS Thu rất ý nghĩa và làm sáng tỏ nhiều điều. Rất mong có thêm nhiều ý kiến về vấn đề này và sư cân nhắc của các lãnh đạo ngành.  

Đất Việt
  3  

Cảm ơn Thầy Thu đã chia xẻ. Hiện nay, xu hướng đẩy mạnh nghiên cứu ở cấp cử nhân và thậm chí, cấp 3 ở Mỹ đang được xúc tiến. Bởi họ tin rằng việc cho HS tiệp cận và làm nghiên cứu KH càng sớm càng tốt. Thế nên, nếu VN quyết tâm đi theo hướng học nghiên cứu và ứng dụng thì việc trường xác định cho cấp cử nhân học cơ bản 2-3 năm và năm cuối làm nghiên cứu cũng ổn ạ. Chỉ có điều, em đồng ý với Thầy là ko hiểu được khunng ngành nghề có rồi, mà giờ vẽ ra bảng mô tả công việc cho từng ngành nghề chưa làm được, em thực lòng không hiểu?  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2011(Xem: 6988)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4084)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 5661)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 5801)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5120)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4456)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 4243)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4265)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 5683)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
24/02/2011(Xem: 6466)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567