Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hiện tượng ảo giác-hoang tưởng, điên

26/03/201700:47(Xem: 4215)
Hiện tượng ảo giác-hoang tưởng, điên

day than kinh


ẢO GIÁC - HOANG TƯỞNG - ĐIÊN   (1)
Hiện tượng ảo giác-hoang tưởng



Chả ai lạ gì, trong cuộc sống, xã hội ngày càng tiến bộ thì thế giới hoang tưởng ngày càng rộ nở.Hoang tưởng thuộc dạng tâm thần phân liệt. Có những hoang tưởng đưa đến điên loạn, cũng có những hoang tưởng biến kẻ đó thành người kiệt xuất, thiên tài, đóng góp cho xã hội nhiều công trình tuyệt trác.

Khoa học chưa xác định nguyên nhân đưa đến ảo giác, hoang tưởng, vì họ cho đó là triệu chứng nội sinh thuộc hệ thần kinh, nhưng trong cuộc sống, nạn nhân ảo giác, hoang tưởng có thể do bị truy bức ám hại, do bị kềm chế quá mức, bị chi phối bởi vấn đề căng thẳng, do một chấn thương tâm sinh lý, do tu luyện sai lệch, do sử dụng các thiết bị hiện đại suốt thời gian dài mà đương sự tự cách ly với cuộc sống chung quanh, nhất là dùng head phone, earphone thường xuyên, đưa đến ảo thanh, nghĩa là lỗ tai luôn nghe những âm thanh lạ. Cũng có rất ít trường hợp bệnh nhân viêm xoan lâu ngày ảnh hưởng hệ thần kinh thính giác. Cũng có trường hợp tự kỷ ám thị một vấn đề lý tưởng biến sanh hoang tưởng...đôi khi tiếp cận, tương thích với sóng âm ngoại biên ở môi trường không thích hợp, nhất là vùng nhiều âm khí do tích tụ lâu ngày xác chết dưới chỗ ở...trường hợp này mới bị, thay đổi nơi cư trú sẽ thoát khỏi ảnh hưởng.

Theo khoa học nguyên nhân của bệnh hoang tưởng ảo giác do những biến đổi, khiếm khuyết về rối loạn chuyển hóa của tế bào não, rối loạn chức năng hoạt động của não và chưa một xét nghiệm nào có thể phát hiện được. Tâm thần phân liệt hoang tưởng và hình thức khác của chứng rối loạn tâm thần phân liệt não. Di truyền và môi trường có khả năng cả hai đóng một vai trò trong việc gây ra tâm thần phân liệt.

Hiện tượng biểu hiện tâm thái bất thường, thương ghét vô cớ, lảm nhảm một mình.Ảo thanh thường nghe từ trong lỗ tai ra lệnh làm những việc xấu có hại cho bản thân cũng như cho người chung quanh. Đôi khi bị ám ảnh ai đó hại mình. Cũng có trường hợp hoang tưởng có thể sáng chế, nghiên cứu, phát minh ra những cái mà người thường không thể làm được. Được gọi nôm na là bệnh “vĩ cuồng”, những người mắc dạng hoang tưởng tự cao thường quá tự đề cao bản thân, tưởng mình là thiên tài, vĩ nhân. Người có địa vị, hoang tưởng tự cao cứ nghĩ mình là lãnh tụ dẫn dắt quần chúng theo con đường mình phát minh hoặc tiếp thu từ cảnh giới khác.

 

 

Ảo giác, hoang tưởng nhẹ thì lúc có lúc không, người ngoài khó phân biệt, chỉ trừ người thân  hoặc người thân cận theo dỏi mới phát hiện sự bất thường đó.Bệnh nầy, y học khó chẩn đoán xác đinh bằng dụng cụ máy móc. Bệnh nhẹ, bác sĩ tinh ý lắm mới nhận thấy qua trực tiếp trao đổi với bệnh nhân.

Việc chữa trị, cần nhất là gia đình hỗ trợ chăm sóc ăn ngủ điều độ, tránh dùng đồ kích thích, cay nóng, cà phê, thuốc lá. gợi ý nắm bắt tâm lý để điều chỉnh ý thức của bệnh nhân lúc trao đổi.khuyến khích vận động nhẹ như thể thao, thể dục.

 

Ảo giác đưa đến hoang tưởng, hoang tưởng đưa đến điên loạn, có nghĩa từ tâm thần phân liệt nhẹ dần dà đưa đến bệnh tâm thần do lúc đầu chưa được theo dỏi chửa trị.

Tâm thần phân liệt là một rối loạn có thể điều trị được và người bệnh có thể làm việc và sống bình thường với nhân viên y tế, với người thân trong gia đình. Phát hiện và điều trị càng sớm hiệu quả càng cao.

Cần phân biệt người bị ảo giác, ảo thanh và một hành giả trên tiến trình tu tập. Hành giả có thể nghe âm thanh vi diệu, còn gọi là tiếng nhạc trời, hoặc âm thanh từng nhạc cụ khác nhau, khi nghe được những âm thanh như thế, hành giả cảm thấy hoan lạc, thanh thản như thực vật được nuôi dưỡng bằng âm thanh sẽ lớn nhanh. Những âm thanh do hành giả nghe được không tác hại sức khỏe bản thân hay đe dọa cuộc sống chung quanh. Hành giả thiền định, thời gian đầu cũng xuất hiện nhiều cảnh tượng do ngũ ấm nội thân phát khởi, nếu trụ tâm vào đó sẽ bị lạc dẫn đến hoang tưởng, điên loạn. Qua thời kỳ đó, linh ảnh xuất hiện từ những sóng thức tuệ giác, những linh ảnh nầy luôn tồn tại mà không bị biến mất như  giai đoạn đầu hành giả tập lắng đọng nghiệp thức.

                                                            ***

 Trong tôn giáo                                               

Ngay cả tôn giáo, vẫn có những trường hợp xẩy ra. Kito giáo từng có những tu sĩ tự xưng là sứ giả Thiên Chúa trao truyền mật khải cho thế gian. Ở Nhật, giáo phái Aum Shinrikyo do Asahara được chính thức hoạt động năm 1989, ông ta kết hợp giáo lý nhà Phật+kinh Tibetan+ kinh Yoga của Patanjali và Đạo giáo để xuất bản ra cuốn Vượt qua sự sống và cái chếtKinh Mahayana và Sự khởi đầu.

Sau khi thu hút được một số tín đồ, cứ nghĩ mình thay mặt Thượng đế canh cải tôn giáo và sát phạt những kẻ tội lỗi, đưa đến vụ  khủng bố tàu điện ngầm Tokyo bằng khí Sarin. IS hiện nay cũng thế,phải diệt tất cả bọn ngoại đạo và xã hội văn minh  sa đọa để thành lập một Thiên đường Hồi giáo cực đoan; Ở Nam Triều Tiên năm 2000, mục sư khuyên tín đồ bán tài san cúng cho nhà thờ rồi tự sát tập thể vì ngày giờ tận thế Chúa đã phán...

Mỹ cũng có David Koresh, Jim Jones, Charles Manson, David Burg, Ron Hubbard, Marshall Applewhite, Bonnie Nettles, mục sư Sun Myung Moon  v.v......

Trong Phật giáo hiện nay cũng đang có một hiện tượng mà một số tín đồ theo đương sự cứ tin ông ta là Thánh sống. Phần nầy sẽ trình bày sau.

Trong giới trí thức khoa bảng cũng không tránh khỏi những hiện tượng hoang tưởng. Tại Trung quốc, một tay cuồng triết tuyên bố dùng triết học để giải những bài toán hóc búa, được báo đài tung hê là "nhà khoa học dân gian".

Nhưng  lãnh vực khoa học không đồng ý danh xưng như vậy; nên gọi với danh hiệu “nhà khoa học hoang tưởng” để chỉ những người không qua đào tạo bài bản, không đủ kiến thức chuyên môn nhưng lại tự cho mình đã có những phát minh vĩ đại.

Nửa thế kỷ trước, Martin Gardner đã miêu tả 5 đặc điểm của các nhà khoa học hoang tưởng phương Tây như sau:

  • Họ tự cho mình là thiên tài
  • Họ cho rằng tất cả những nhà khoa học nghiên cứu cùng vấn đề như họ đều ngu dốt
  • Họ nghĩ rằng mình bị giới “học phiệt” kỳ thị và đàn áp
  • Họ hết sức công kích những nhà khoa học vĩ đại nhất cùng những lý thuyết khoa học cơ bản nhất
  • Tác phẩm của họ vô lý, dùng một lượng lớn thuật ngữ tự nghĩ ra, lời lẽ rối rắm.

Trung Quốc thịnh hành các nhà khoa học hoang tưởng., do truyền thống triết học sản sanh lắm triết thuyết, cộng thêm sau cuộc "cách mạng văn hóa" ca ngợi quần chúng lao động sáng tạo trong thời đại"nhảy vọt", bài xích trí thức khoa bảng, khoa học lúc bấy giờ, tôn nhân dân, công nhân lao động lên ngôi vị lãnh đạo. Khuyến khích toàn dân lao vào lĩnh vực khoa học nhân dân, đột xuất có hiện tượng Trần Cảnh Nhuận, kêu gọi toàn dân học tập theo tinh thần khoa học sáng tạo của anh hùng lao động khoa học Trần Cảnh Nhuận.Những năm trước, trò “biến nước thành xăng” của anh chàng lái xe bus Vương Hồng Thành đã nhận được sự hỗ trợ lớn của đủ các cơ quan nhà nước, đến 10 năm sau mới bị lộ, làm nhà nước thiệt hại tới hơn 400 triệu tệ. . Năm 1999, ở Nam Nhai, Hà Nam, người ta bắt đầu chế tạo “động cơ vĩnh cửu” theo thiết kế của bí thư Vương Văn Bân. Mất 4 năm và hơn 20 triệu tệ, người ta mới học được bài học là trên đời này không tồn tại động cơ vĩnh cửu cũng như không có gì là vĩnh cửu, muôn năm.

Hiện nay, đua nhau phát triển kinh tế, Trung quốc đã sản sanh nhiều nhân tài hoang tưởng, biến tất cả thực phẩm và mọi vật dụng trở thành đồ độc hại giết nhân loại.

Trung Quốc có truyền thống đi tắt theo bước "Đại nhảy vọt" nên sản sanh nhiều thiên tài hoang tưởng và nhà sáng tạo "hàng nhái" tinh vi

                                                             ***

Từ xưa cũng đã từng có nhiều nhà khoa học hoang tưởng muốn biến nước thành xăng như ông ông Alaeddin Qassemi người Iran. Năm 1918, Charles Frazer, một nhà phát minh từ bang Ohio (Mỹ), được cấp bằng sáng chế cho bộ tăng cường hydro, sử dụng điện phân để tăng sức mạnh động cơ cùng hiệu suất nhiên liệu và giảm khí thải. Đến năm 1935, Charles H. Garrett gây xôn xao khi nói phát minh ra động cơ xe vận hành bằng nước lã đầu tiên, dùng bộ chế hòa khí đặc biệt và “chạy được vài phút”. Người Mỹ Stanley Meyer của những năm 1980 đến nhà sáng chế người Philippines Daniel Dingel đầu những năm 2000. Gần nhất, ngay trong năm 2016, vài tờ báo, trong đó có The Mirror (Anh), đưa tin một công dân Ấn Độ mù chữ tên Mohammad Raees Markani (44 tuổi) đã phát minh ra động cơ chạy hoàn toàn bằng nước lã. Nhưng tất cả chỉ là hoang tưởng, không thể áp dụng vào đời sống thực tế.

Thế gian loạn tưởng do áp lực kinh tế và bon chen sáng tạo là chuyện dĩ nhiên. Nhưng Tôn giáo như đạo Phật, nhìn cuộc sống là vô thường, huyển ảo: "Nhất thiết hữu vi pháp - như mộng huyễn bào ảnh - như lộ diệc như điển - ưng tác như thị quán..." Thế mà cũng có người hoang tưởng, cứ xem cuộc sống hữu vi nầy là thật. Một khi đã nhìn thế gian lệch hướng với Phật giáo, thì mọi hành động, lời nói đều là ma đạo. - Chân Quang là một trong những người như thế, đã lạc dẫn vô số tín chúng, nhất là đám thanh niên hiện nay. Năm 2009 về sau, trên 70 Tăng Ni và một số tín đồ đã tỉnh giác tách rời Thiền tôn Phật Quang để tìm nơi tu tập thanh tịnh, trở lại nếp sống chánh đạo của Tăng đoàn mà một thời, đại chúng cảm thấy bất ổn dưới mái chùa Phật Quang do Chân Quang điều hành.Những người ra khỏi Phật Quang, họ mới nhìn lại quá khứ huyển hoặc, họ không hiểu tại sao họ lại tin một cách mù quáng như thế. Chân Quang từng có ý tưởng thiết kế phi thuyền, nói với đệ tử là nhà nước sẽ cần và mua lại, ông ta là người duy nhất sáng kiến ra phi thuyền...còn rất nhiều điều hoang tưởng mà không ai có thể hoang tưởng hơn.

                                               ***

BÍ MẬT SAU HƠN 2500 MỚI ĐƯỢC HÉ LỘ VỀ CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT. Vừa nghe qua, ai cũng giựt mình, suốt gần 30 thế kỷ, chưa có một vị Tổ, một bậc A La Hán nào phát hiện được sự thật về cuộc Đức Đức Phật, nay có một vị ( chưa hiểu vị nầy là bậc Thánh cở nào) đã hé lộ cho hậu thế biết sự thật về cuộc đời đức Phật trong bộ truyện tranh, ông ta đã học từ cỏi vô hình mỗi đêm: Đỉnh núi Tuyết, quyển 16, trang 14- 38 - 49 - 89 - 90 - 91- 92 - 93

. Xin mời tất cả thưởng lãm sự phát hiện nầy: "đến sông Hằng rộng mênh mông, Phật và tăng chúng biến mất ở bờ sông bên này, hiện ra ở bờ sông bên kia" trang 14 Đỉnh núi Tuyết số 16.

Tuy là hư cấu, nhưng hư cấu đi ngược kinh điển, đây là sự xuyên tạc tinh thần  Phật giáo; Truyện tích kể rằng, cuộc đối thoại giữa đức Phật và một đạo sĩ Bà La Môn - Phật hỏi - ông tu luyện bao lâu mới đi trên mặt nước để qua sông? - đạo sĩ trả lời - tu luyện 25 năm - đức Phật nói - ta chỉ cần bỏ 25 xu có thể qua sông.

Như vậy Phật không sử dụng thần thông, cấm đệ tử sử dụng thần thông khi đi hoằng pháp thì lý do nào Chân Quang cho phép Phật và Tăng chúng biến mất ở bờ sống bên nầy, hiện ra ở bờ sông bên kia? có phải bảo Phật là nói một đằng làm một ngả như Chân Quang vậy, hay Chân Quang cố tình xuyên tạc đức Phật thuộc loại huyển hoặc tà thuật??? "cháu phải cố gắng tập đi tập lại những thế võ mà các giáo thọ sư đã dạy trong hai năm qua để tăng cường sức khỏe - thưa tôn già nanda, cháu cũng muốn tập võ cho khỏe, nhưng ngại làm mất oai nghi của người xuất gia" trang 38. Trong giáo lý  và kinh điển, chưa từng nghe đức Phật dạy cho đồ chúng tập võ. Đời sống thường nhật là thiền định, thiền hành, hoằng pháp và khất thực. Hư cấu như thế phải chăng để biện minh cho việc tập luyện võ nghệ tại Thiền Tôn Phật Quang mà Chân Quang cấu kết với võ đường Thanh Long ? Chủ trương đức Phật khi còn tại thế, thời gian dành cho việc tu giải thoát, không hề có việc giải trí đờn ca hát xướng, võ nghệ như Thiền Tôn Phật Quang đang lạc dẫn đồ chúng vào nẽo thế tục.

"Lúc nầy việc làm ăn của ngươi thế nào, ta nghe báo cáo tốt lắm? thưa nữ chúa công, hạ thần nhờ thực hiện mọi chỉ đạo của nữ chúa công nên việc kinh doanh được tiến triển thuận lợi" trang 49.  Một hư cấu nữa muốn hạ thấp đẵng cấp vương quyền của vương gia Tịnh Phạn, để con dâu Ya du Đà La phải kết cấu và chỉ đạo thuộc hạ đi buôn lậu???

Xin xem tiếp Chân Quang nói La Hầu La được sinh sản Đơn tính như thế nào. Sẽ thấy tinh thần loạn tưởng mà không riêng bản thân Chân Quang, người chị của Chân Quang trước kia trụ trì chùa Thiền Lâm ở ngã tư An Sương, cũng không được bình thường, sau đó bán chùa đi khỏi Hốc Môn. Như vậy do gen di truyền???


MINH MẪN

25/3/2017        (còn tiếp)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2011(Xem: 6981)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4080)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 5644)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 5796)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5114)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4448)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 4231)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4257)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 5677)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
24/02/2011(Xem: 6444)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567