Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

75. Thiền Sư Mật Am Hàm Kiệt, Tổ thứ 51, đời thứ 14 Thiền Phái Lâm Tế

13/10/202108:56(Xem: 17014)
75. Thiền Sư Mật Am Hàm Kiệt, Tổ thứ 51, đời thứ 14 Thiền Phái Lâm Tế


222_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Ham Kiet

Nam Mô A Di Đà Phật
  
Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư Mật Am Hàm Kiệt (1118-1186). Ngài thuộc đời thứ 18 sau Lục Tổ Huệ Năng, và cũng là Tổ thứ 14 của thiền phái Lâm Tế. Thiền sư Mật Am Hàm Kiệt là đệ tử nối pháp của ngài Ứng Am Đàm Hoa.

Ngài sanh năm Canh Dần 1118, ở tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ, Ngài thông minh, thường chán cảnh trần lao, ngài xin xuất gia với Tổ Ứng Am Đàm Hoa. Tổ Ứng Am Đàm Hoa nhìn biết ngài là sẽ nối truyền tông pháp nên tận tình chỉ dạy.

Một hôm, Tổ hỏi: “thế nào là Chánh Pháp nhãn  tạng”
Sư đáp: “đập vỡ bồn cát”.
Tổ liền gật đầu ấn chứng và là Tổ thứ 14 trong tông Lâm Tế, chánh pháp nhãn tạng nay ta giao cho con và lo giữ gìn.

Sư Phụ giải thích: "đập vỡ bồn cát" ý ngài Mật Am trả lời 4 chữ ấy là liễu đạt công việc đập vỡ cái "võ" vô minh, tát cạn "dòng sông" phiền não để thấy ra được Phật tánh.

Sư Phụ giải thích chi tiết: "Chánh pháp nhãn tạng" là kho tàng Chánh Pháp, đó là Niết Bàn diệu tâm, là lời của Đức Thế Tôn truyền cho Sơ Tổ Ca Diếp trên núi Linh Thứu khi Đức Thế Tôn cầm cành hoa sen đưa lên, chỉ có Ngài Ca Diếp nhận ra yếu chỉ và mỉm cười, từ đó, câu niêm hoa vi tiếu , như một công án, tâm ấn tâm.

Chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tánh cũng là thật tướng dung chứa đạo giải thoát, là Phật pháp diệu mầu, là Phật tánh của tất cả chúng sanh. Ngài Ca Diếp nhìn thấy hoa sen, là biểu tượng Phật tánh của chúng sanh, Đức Phật truyền giao trách nhiệm này cho Ngài để giáo hoá chúng sanh, giúp chúg sanh nhận ra được Phật tánh của chính mình. 

Sau khi đắc pháp, ngài Mật Am Hàm Kiệt khai đàn ở chùa Linh Ẩn.
Sư thượng đường dạy chúng: “ Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm. Ta không có tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp"

Sư Phụ giải thích: Thiền Sư Mật Am nhắc lại lời của Lục Tổ Huệ Năng để dạy chúng : "Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm. Ta không có tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp". Có nghĩa là "Chúng sanh đa bệnh, Phât pháp đa phương", mỗi pháp môn là mỗi viên thuốc tri tâm bệnh của chúng sanh:
Bệnh tham, thì dùng thuốc "bố thí" để trị
Bệnh sân thì dùng thuốc "nhẫn nhục, từ bi" để trị
Bệnh si thì dùng thuốc "nhân duyên sinh" để trị
Bệnh "giải đãi" thì dùng thuốc "tinh tấn"...

Đó là Như Lai Thiền, dùng từng phương thuốc để trị từng căn bệnh.

Còn Tổ Sư Thiền chỉ cần dùng 1 phương thuốc duy nhất là "phản quang tự kỷ", quay về với tâm mình, quán sát tâm mình, mọi niệm khởi lên, nhìn thẳng vào nó, nó sẽ tự diệt. Tâm làm chủ các pháp, tâm thanh tịnh, hạnh phúc sẽ theo ta như bóng theo hình.



Kính mời xem tiếp




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/07/2011(Xem: 15247)
Một lòng mỏi mệt không nài, Cầu về Cực Lạc ngồi đài liên hoa. Cha lành vốn thiệt Di Đà, Soi hào quang tịnh chói lòa thân con.
16/06/2011(Xem: 26827)
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Giọng niệm: HT Thích Hạnh Hòa, TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng www.quangduc.com
13/06/2011(Xem: 11371)
Audio: Thiền Tập, bài giảng của TT Tâm Thành
23/04/2011(Xem: 4291)
Tại sao phải hành sám hối? Tôi nhận thức rằng muốn nghĩ đến vãng sanh Tịnh Độ cần phải sám hối trước, phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật. Chỉ có sám hối nghiệp chướng của mình thề không tái tạo, mới được vãng sanh.
01/04/2011(Xem: 3942)
Mấy ngày trước, có một đồng tu đến kể với tôi rằng ông gặp một câu hỏi khó như sau: “Các vị là người học Phật, vậy chân thật có Phật hay không? Anh đã bao giờ thấy Phật chưa?” Ông không thể trả lời, liền trở về hiệp hội hỏi tôi, để về sau nếu gặp câu hỏi này thì nên trả lời như thế nào? Tôi nói với ông ấy, giả như về sau lại có người hỏi như thế thì ông nên nói với họ: “Thật có Phật, tôi đã thấy qua rất nhiều”. Họ sẽ hỏi ở đâu.
24/02/2011(Xem: 26605)
8 Điểm Gặp Gỡ Kinh Nam và Bắc Tạng - HT Thích Chơn Thiện giảng
24/02/2011(Xem: 8064)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
22/02/2011(Xem: 4180)
I. GIỚI THIỆU: Kỳ-na giáo (Jainism) là một trong những tôn giáo phi Phệ-đà và có những đặc điểm của nền Văn minh lưu vực Ấn hà. Kỳ-na giáo phát triển như một phong trào chống lại chủ trương tế lễ của Bà-la-môn giáo và tính thẩm quyền của Phệ-đà.
18/02/2011(Xem: 5431)
Bà La Môn là phiên âm của từ Brahman, sau nầy biến cải thành đạo Hindu, một tôn giáo chính của Ấn độ ngày nay, nên ngày nay gọi là Ấn Độ giáo. Đặc biệt Bà La Môn hay Ấn Độ Giáo là một tôn giáo không có giáo chủ.
08/02/2011(Xem: 3833)
Mahamangala Sutta thuộc Sutta Nipata II, Tiểu Bộ kinhI, Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch là Kinh Phước Đức,Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là Kinh Điềm Lành Lớn (Kinh Đại Hạnh Phúc), một bản kinh cầu phước đức rất nhiệm mầu, hiệu ứng an lành đích thực cho những ai tụng đọc, thực hành và ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Vào các ngày đầu xuân, những người con Phật lên chùa dâng hương cầu nguyện, mong ước một năm mới bình an, thịnh vượng. Bên cạnh việc lễ bái, cầu nguyện, cúng dường v.v..., nếu người nào hữu duyên được đọc tụng và hành trì theo kinh Phước Đức thì chắc chắn sẽ gặt hái được phước báo vạn sự cát tường như ý.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]