Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thú vui ngày Tết : Bài chòi, hát bội

26/01/201411:08(Xem: 6588)
Thú vui ngày Tết : Bài chòi, hát bội
hat boi
Hồi trước, ở quê tôi người ta gọi là hát bội chứ không ai nói là hát bộ, như câu ca, có ông chồng say như trong chay ngoài bội, ngó vô nhà như ngày hội Tầm Dương …, còn bài chòi thì gọi là hô chứ không ai gọi hát hay ca. Cái nôi của bài chòi và hát bội là ở vùng Nam Ngãi Bình Phú, nhưng không dừng ở đó, mà lan tỏa sang các tỉnh thành khác lân cận, tạo nên hình thức giải trí có tính cách thưởng ngoạn và mang lại sự say mê trong mọi tầng lớp nhân dân.

Về hát bội, có cả nhóm hát nghiệp dư và những đoàn hát chuyên nghiệp.

Chuyên nghiệp thì tổ chức chặt chẽ thành đoàn, có rạp hát, có sân khấu, có bán vé cho người xem; thường hay biểu diễn ở nơi thị trấn, thành phố… những nơi có thể tập trung người xem được dễ dàng. Nghiệp dư thì trái lại. Họ là những người sinh sống bằng đủ thứ ngành nghề trong xã hội. Vào những dịp Tết hay khi có hội hè lễ lạt, được ban hương hội hay các nhà hào phú mời hát giúp vui thì họ mới tập trung nghệ sĩ lại. Nơi trình diễn thường vẫn là chốn chùa chiền, đình làng hay tại nhà phú hộ. Sân khấu lộ thiên và không bán vé.

Cũng như hát bội nghiệp dư, nhưng bài chòi có tính cách bình dân, đơn giản hơn nhiều. Vài người ngồi lại với nhau, chỉ với một cây đờn có trợ lực cũng có thể hô thành bài bản, không cần có sân khấu, áo quần, đờn địch rờm rà. Khi nào cần mới tập trung đầy đủ bộ sậu.

Vào những dịp Tết, làng quê thường hay tổ chức hát bội, bài chòi để vừa góp vui vừa “bói” may mắn đầu năm. Hồi tôi còn nhỏ, Tết năm nào cũng có dịp đi xem hát bội, nghe hô bài chòi, lấy làm thích thú lắm! Ở làng tôi, hát bội được tổ chức ngay giữa sân chùa Ông (thực ra chỉ là miếu thờ Quan Công nhưng người ta vẫn quen gọi là chùa Ông). Nghệ sĩ dĩ nhiên toàn là nghiệp dư. Khán giả là những nông dân quanh năm đầu tắt mặt tối, thư thả được mấy ngày Tết truyền thống kéo nhau đến xem một cách háo hức.

Nói nghiệp dư nhưng khi lên sân khấu cũng vẽ mặt, cũng có trang phục đầy đủ lệ bộ hợp với vai diễn, tuồng tích, được phụ họa bằng kèn trống, nhạc cụ không thiếu thứ gì. Bấy giờ, đề tài xã hội chưa được ưa chuộng trên các vở diễn đều thuộc loại tuồng cổ như: “San hậu”, “Phụng nghi đình”, “Chung vô diện”, “Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê”… Mỗi vở tuồng được diễn kéo dài liên tiếp nhiều đêm, có khi đến cả tuần lễ, mười ngày chưa hết, tạo nên sự thu hút, khán giả khó có thể bỏ cuộc nửa chừng được.

hat boi-2

Hồi trước, do sinh hoạt nông nghiệp, người ta ăn Tết không chỉ có ba ngày, mà là bảy ngày; có nơi kéo dài cho đến Tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng) mới dứt. Dù nghèo khổ cách mấy thì công việc cũng tạm thời được gác qua một bên, vui chơi cho thỏa thích cái đã. Ông bà ta bảo: “Tháng Giêng là tháng ăn chơi” mà! Cứ mỗi buổi chiều khi mặt trời vừa lặn, nghe tiếng trống giục vang ra từ giữa làng như mời gọi mà lòng nghe náo nức, ai nấy vội vội vàng vàng lo thu xếp mọi công việc nhà, kéo nhau về hướng chùa Ông, tranh thủ đến trước để còn có thể kiếm chỗ ngồi thích hợp. Chỉ là ngồi bệt dưới nền đất. Một vài hàng ghế phía trước “sân khấu” để dành riêng cho những chức sắc hay những người quyền quý trong làng. Ai đến trễ thì phải đứng chen chúc bên ngoài ngóng mắt nhìn vô.

Tuy không ghế ngồi nhưng khán giả đều giữ gìn yên lặng thưởng thức điệu múa lời ca hết sức trật tự. Mỗi lần diễn thường đến nửa đêm mới dứt. Đến mãn cuộc vẫn còn thấy luyến tiếc nên trên đường về khán giả không ngớt bàn tán về tài ba của nghệ sĩ, nhận xét về các nhân vật trung nịnh, thiện ác trong vở tuồng nghe thật sôi nổi, hào hứng… râm ran cả đường làng khuya.

Nếu hát bội được tổ chức hát vào ban đêm với địa điểm thường ở đình chùa, thì bài chòi lại diễn ra vào ban ngày, thường là mượn địa điểm nơi chợ trong những ngày chợ nghỉ bán. Các chức sắc trong làng trưng dụng lòng chợ dựng lên mười hai cái chòi dã chiến nằm song song mỗi bên sáu chòi. Ở giữa, trên mặt nền chợ, người ta trải chiếu làm “sân khấu” để nghệ sĩ trình diễn. Phía đầu chợ là nơi để cho các quan chức ngồi xem, cầm chầu… và là nơi dựng ống thẻ dùng để đánh bài chòi. Thẻ là thẻ tre trên đó có dán những quân bài tứ sắc để xác định tên thẻ, gọi là những thẻ con. Ngoài ra, còn có 12 thẻ cái, có kích thướt lớn hơn, cỡ bằng hai ngón tay, được dán trên đó những mảnh giấy đã viết sẵn những chữ Nho ghi tên ba quân bài bất kỳ có đủ bốn màu đỏ vàng xanh trắng.

Mỗi đợt chơi có 12 người mua 12 thẻ cái ngồi trong 12 chòi. Số lượng người còn lại đứng vòng quanh vừa để xem hô bài chòi, vừa nếu muốn, đợi đến phiên mình mua thẻ lên chơi, bói may rủi đầu năm. Có người mê đến nỗi ngồi mãi cho đến mãn cuộc mới chịu thôi. 12 người mua 12 phần tiền, chỉ có một người trúng, nhưng nếu trúng thì chỉ được nhận 10 phần, 2 phần còn lại được sử dụng vào việc chi phí chung của cuộc chơi, kể cả tiền bồi dưỡng cho nghệ sĩ.

Trong khi giữa sân các nghệ sĩ trình diễn thì người “chạy hiệu” lắc lắc ống đựng thẻ, rút ra may rủi mỗi lần một thẻ, hô lớn tên quân bài trong thẻ ấy. Khi hô bài, người chạy hiệu thường không gọi ngay tên quân bài mà thường đọc lên một câu ca dao hoặc một lời gợi ý để người nghe phải suy đoán, gọi là hô thai. Người nào giữ thẻ cái có quân bài phù hợp thì xướng lên bằng cách gõ sanh là hai thanh tre khô khi đập vào nhau có tiếng vang để người chạy hiệu mang thẻ con ấy đến cho mình. Khi nào thẻ cái đủ cả 3 thẻ con phù hợp thì người ấy hô “tới”, cũng bằng cách gõ sanh nhưng theo một nhịp điệu dồn dập và tươi vui hơn. Bấy giờ, người chạy hiệu để tiền trên một chiếc khay kèm theo một lá cờ bằng giấy hình tam giác giao cho người may mắn. Mỗi lần “tới” là được một lá cờ.

Như bài chòi, hô bài chòi không cần phải có sân khấu. Họ trình diễn ngay trên những chiếc chiếu trải nơi giữa lòng chợ. Cả ban nhạc kèn trống cũng đều ngồi xếp bằng nơi đây. Áo mão, cân đai, trang điểm… cho các nhân vật cũng có tính cách tượng trưng. Những vở diễn thường lấy theo tích xưa như: Thoại Khanh Châu Tuấn, Lão Trượng Tiên Bửu, Lâm Sanh Xuân Nương, Phạm Công Cúc Hoa… Đoạn nào trình diễn hay, nghệ sĩ nào hô giỏi, người cầm chầu thấy thích thú thì vãi thẻ ra sân để thưởng. Nghệ sĩ cứ nhặt lấy thẻ ấy đến đổi số tiền tương ứng. Thẻ thưởng khác với thẻ chơi bài chòi. Mỗi thẻ quy bằng bao nhiêu tiền do nơi sự quy ước từ đầu. Người xem cứ xem, người đánh bài cứ đánh bài, nghệ sĩ hô cứ hô; thật là một cảnh vui ngày Tết chỉ thấy ở thôn quê ngày xưa.

Nửa thế kỷ qua, bây giờ tôi không còn có dịp thưởng thức thú vui như hồi còn nhỏ nữa. Bài chòi, hát bội đã vắng bóng trên quê tôi. Ngày Tết người ta tìm hiểu thú vui khác theo với trào lưu mới. Nhưng trong tôi ấn tượng ngày xưa không thể nào quên được. Mỗi năm về quê ăn Tết, họa hoằn nghe được tiếng trống làng bên, lòng nao nao nhớ lại kỷ niệm của những ngày xưa cũ lạ thường. ■

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/02/2011(Xem: 5587)
Nhân nói về mùa XuânDi-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêmvề một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước. Theo Wikipedia, mộtsố các nhà Phật học như các vị giáo sư Erich Frauwallner, Giuseppe Tucci, vàHakiju Ui cho rằng Luận sư Di-lặc (Maitreya-nātha– khoảng 270-350 TL)là tên một nhân vật lịch sử trong 3 vị luận sư khai sáng Du-già hành tông (Yogācāra)hay Duy thức tông (Vijñānavāda)...
31/01/2011(Xem: 8509)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
28/01/2011(Xem: 6618)
Nếu chọn một số tròn để ghi lên cột mốc thời gian của những mùa Xuân lạc xứ, xa nhà thì tôi sẽ đề số 35/30 trên cột mốc năm nay. Đây không phải là số tuổi chín muồi của một cặp vợ chồng lý tưởng; cũng chẳng phải là hai con số cặp kè của sự phân chia bí ẩn nào đó. Nó chỉ đơn giản như những mùa xuân qua đếm bằng cuốn lịch trên tường và tóc bạc trên đầu. Con số đó là dấu chỉ của dòng thời gian nhớ nhớ, quên quên: 35 năm sống trên quê mẹ và 30 năm sống ở quê người. Ở tuổi về hưu, một người sống gần trọn đời giữa hai thế giới. Người ấy sẽ là ai ở giữa mùa Xuân?... Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
28/01/2011(Xem: 5077)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
25/01/2011(Xem: 4544)
Đón năm mới, ai cũng mong muốn mọi việc đều mới. Mới ở đây mang ý nghĩa may mắn, bình an, khá giả hơn những gì đã xảy ra trong năm cũ.
23/01/2011(Xem: 3532)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc? Đơn giản, đó là khi chúng ta có được một lợi ích nào đó hoặc đang làm một lợi ích nào đó cho mình. Vậy thì, lợi ích cho chính mình là hạnh phúc. Và lợi ích ấy bao gồm cả thân tâm, nghĩa là lợi ích phải bao gồm cả vật chất và tâm thức. Hạnh phúc phải bao gồm vật chất và tâm thức, thân và tâm, nên chúng ta vẫn thường chúc “Thân tâm thường an lạc”.
22/01/2011(Xem: 3949)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
21/01/2011(Xem: 4604)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông, nóng nảy của mùa Hạ hay vẻ đìu hiu của mùa Thu.
21/01/2011(Xem: 5582)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp, thư thái nâng chén trà ngon, cho nhau một chút tình đời ý đạo, còn gì thú vị hơn! Trà là thức uống có từ rất xưa, gắn liền với đời sống con người Á Đông, nhất là người Việt Nam. Trà có mặt trong đời sống của ta từ khi ta sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời (người chết được liệm bằng trà), trà như là một phần tất yếu của đời sống.
21/01/2011(Xem: 3416)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử. Vì vậy rừng mai cổ Yên Tử phải được gìn giữ, bảo tồn... Mai, lan, cúc, trúc được người đời tôn là tứ quý và được coi là biểu tượng của bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mai vàng là một loài hoa đẹp cao quý chỉ nở mỗi năm một lần đúng vào dịp xuân về.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]